Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Tiểu học Lớp 1

doc 54 trang Ngọc Huệ 25/12/2024 560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Tiểu học Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_doc_cho_hoc_sinh.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Tiểu học Lớp 1

  1. Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Tiểu học số 1 I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Bác Hồ đã dạy: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” Lời dạy đó là “kim chỉ nam” cho mục tiêu giáo dục của Đảng. Chính vì thế mà Đảng luôn coi “giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân”, đặc biệt là đối với Tiểu học vì đây là bậc học đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện sau này của các em. Cùng với môn Toán, môn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động này thể hiện trong 4 hoạt động tương ứng với bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc và viết. Mà muốn hình thành cho học - Tập đọc là môn khởi đầu, đồng thời cũng là công cụ học tập không chỉ trong nhà trường mà còn trong cuộc sống nói chung. Trước hết, môn Tập đọc giúp cho học sinh rèn kĩ năng đọc đúng, ngắt giọng, nhấn giọng, đọc diễn cảm một bài văn, khổ thơ làm tiền đề cho việc tìm hiểu bài. Các quá trình đó có liên quan mật thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh được tri thức văn hóa của dân tộc, tiếp thu nền văn minh của loài người thông qua sách vở, biết đánh giá cuộc sống xã hội, tư duy. Qua hoạt động học, tình cảm thẩm mĩ của các em được nâng cao nên tầm hiểu biết để nhìn ra thế giới xung quanh và quá trình nhận thức của các em có chiều sâu hơn. Đọc đúng, đọc hay cũng là kĩ năng của ngôn ngữ văn học. Qua đó có tác dụng giáo dục tình cảm, đạo đức cao đẹp cho người học sinh. Đồng thời phát huy óc sáng tạo và khả năng tư duy như quá trình phân tích tổng hợp cho các em. Mặt khác, phân môn Tập đọc có nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc cho học sinh. Đọc là một hoạt động của lời nói, là quá trình chuyển dạng chữ viết sang lời nói âm thanh, là quá trình chuyển tiếp hình thức chữ viết thành đơn vị nghĩa không có âm thanh. Cả hai hình thức trên đều không thể tách rời nhau. Chính vì vậy, dạy đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học. Nó đã trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với người đi học. Đọc là một khả năng không thể thiếu đựơc của con người trong thời đại văn minh. Xuất phát từ quan điểm chung là dạy Tập đọc kết hợp dạy ngữ và rèn đọc tiếng mẹ đẻ, thực tế hiện nay ngành giáo dục nói chung và bậc tiểu học nói riêng, đã và đang tiến hành
  2. đổi mới phương pháp dạy học đối với tất cả các môn học trong đó có môn Tập đọc. Hiện nay ở nhà trường Tiểu học, việc rèn luyện kỹ năng đọc đạt kết quả chưa cao. Có thể có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân lớn nhất có lẽ là cách thức về phương pháp rèn đọc chưa được coi trọng. Thực tế nếu không có kỹ năng đọc thì học sinh không có điều kiện để học các môn khác, không thể tiếp thu nền văn minh của loài người. Vì vậy việc dạy đọc cho học sinh có ý nghĩa to lớn. Thông qua dạy đọc, giáo viên giúp cho học sinh đọc đúng, đọc hay và bồi dưỡng cho các em cái hay cái đẹp trong cuộc sống. Giáo viên phải đặc biệt coi trọng và chú ý đến việc dạy văn kết hợp với việc dạy ngữ cho học sinh tiếng mẹ đẻ một cách toàn diện. Dạy đọc đúng với dạy đọc hay, dạy đọc (ngôn ngữ) với dạy (văn học). Đó chính là cơ sở dạy học cho học sinh trưởng thành và phát triển cả về trí tuệ và tâm hồn, nhân cách và tri thức. Với học sinh lớp các em bước đầu biết đọc thì giáo viên cần hướng dẫn, đọc đúng, đọc nhanh, đọc lưu loát trôi chảy. Với chương trình thay sách Tiếng Việt Tiểu học, tôi đã và đang từng bước thực hiện nhiệm vụ dạy tốt môn Tiếng Việt trong đó có có phân môn Tập đọc. Từ đó người giáo viên thấy rõ và xác định được việc dạy học tập đọc cho học sinh Tiểu học nói chung học sinh lớp 2 nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết. Chúng ta phải làm thế nào để thông qua môn tập đọc giúp học sinh không những đạt được năng lực đọc mà phải hiểu nội dung của văn bản và các thể loại từ văn xuôi đến thơ ca. Hiểu được ý đồ của tác giả và bút pháp nghệ thuật mà mỗi tác giả đã thể hiện trong tác phẩm. Giáo viên phải tìm phương pháp tiếp cận làm cho học sinh có cảm tình với bài đó, thúc đẩy học sinh biểu lộ tình cảm, thái độ tự nhiên thông qua giọng đọc. Trong thực tế hiện nay, để thực hiện được vấn đề này, người giáo viên phải thay đổi cách dạy để các em có thể nắm bắt được tri thức - thực hiện việc dạy theo hướng đổi mới. Mặt khác việc dạy đọc đúng cho học sinh đã có từ lâu và cũng có nhiều tài liệu đề cập đến. Tất cả đều khẳng định vai trò quan trọng của việc dạy đọc đúng - đọc hiểu cho học sinh. Vì vậy trong quá trình dạy phân môn này giáo viên cần quan tâm đến tất cả các yếu tố cấu thành chất lượng phân môn tập đọc và đặc biệt là việc dạy đọc đúng cho học sinh phải được coi trọng. Thông qua việc dạy đọc đúng giúp các em hiểu được văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh kiến thức.
  3. Mặc dù lâu nay các thầy cô giáo đã và đang thực hiện việc rèn đọc đúng cho học sinh, nhất là đối với học sinh Tiểu học nhưng điều đó vẫn còn bị hạn chế. Bản thân tôi là một giáo viên Tiểu học đã trực tiếp dạy lớp 2 tôi thấy được quá trình dạy đọc đúng cho học sinh Tiểu học là rất quan trọng. Đối với học sinh lớp 4-5 việc đọc diễn cảm và đọc đúng đã là vấn đề khó thì đối với học sinh lớp 2 nói riêng lại càng khó hơn nhiều. Bởi vì các em đều là học sinh mới làm quen với bài văn, bài thơ ở tháng 2 của học kỳ II. Nhưng nếu được quan tâm rèn luyện đọc thì các em sẽ đọc tốt. Cũng có một em khi còn học lớp 1 đọc đã yếu lại không được sự quan tâm giáo dục của bố mẹ nên khi chuyển lên lớp các em đọc vẫn còn yếu. Thực tế khảo sát chất lượng phân môn tập đọc đầu năm của học sinh cho ta thấy học sinh phát âm còn ngọng, hay sai phụ âm đầu vần và dấu thanh. Học sinh thường phát âm sai phụ âm: l, n, ch, tr và các thanh hỏi – ngã. Học sinh đọc bài chưa biết ngắt nghỉ dấu chấm, dấu phẩy trong một bài văn, bài thơ. Giáo viên dựa trên hướng dẫn của sách giáo khoa để tổ chức lớp bằng phương thức giáo viên hỏi- học sinh trả lời. Chính vì vậy mà đã bộc lộ nhiều nhược điểm trong việc quản lí lớp cũng như khả năng kích thích hứng thú học tập của học sinh tham gia tìm hiểu xây dựng bài. Đặc biệt là việc rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh còn hạn chế, và sau một giờ, một bài học sinh ít có khả năng đọc hay, diễn cảm và hiểu nội dung bài một cách đầy đủ. Học sinh không quan tâm tới phương pháp đọc của mình. Do đó, các em rất yếu về năng lực đọc. Chính vì vậy, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi rất băn khoăn những vấn đề tồn tại trên. Vậy tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp qua môn Tập đọc” với mong muốn nâng cao trình độ nghiệp vụ nhằm giúp học sinh biết đọc đúng, hay, có khả năng kể chuyện, giao tiếp tốt, viết đúng chính tả, viết được những bài văn có đủ ý, trọn câu và ngày càng hứng thú đọc sách. Khi viết đề tài này tôi đã phát huy tất cả những kiến thức được học, được bồi dưỡng qua các lớp học chuyên môn và học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. Đặc biệt là kinh nghiệm thực tế qua các giờ dạy mà đối tượng chính là học sinh của mình. Do đó, tôi muốn đưa ra những phương pháp đặc trưng ở góc độ chủ quan mà tôi đã tiếp thu được trong các kì bồi dưỡng hè.
  4. II/ MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Mục đích: - Tìm ra biện pháp đọc đúng, đọc hay, tốt nhất để giúp học sinh học tốt phân môn Tập đọc lớp - Giúp học sinh yêu thích phân môn Tập đọc, phát huy khả năng học Tiếng Việt để từ đó tiếp thu tốt các môn học khác. - Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục môn Tiếng Việt nói riêng và chất lượng giáo dục trong nhà trường nói chung. 2. Đối tượng: - Học sinh lớp Trường 3. Thời gian: - Từ tháng năm - tháng năm 4. Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục đích rèn đọc cho học sinh tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, phỏng vấn và trao đổi trực tiếp với học sinh, giáo viên, dùng phiếu thăm dò. - Phương pháp trao đổi và toạ đàm với đồng nghiệp. - Tìm kiếm sự hỗ trợ, tư vấn của các nhà nghiên cứu về Tiếng Việt, viết sách Tiếng Việt Tiểu học. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu có liên quan đến đề tài, tìm hiểu sách giáo khoa Tiếng Việt 2, sách giáo viên. - Dạy thực nghiệm. - Kiểm tra đánh giá sau thực nghiệm. - Tổng kết, đánh giá. B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP
  5. Hiện nay với sự phát triển ngày càng càng cao, đặc biệt là sự đổi mới đáng đề cập đến đó là vấn đề đổi mới về chương trình và sách giáo khoa Tiểu học thì vấn đề giáo dục phải ngày càng được phát triển, đổi mới không ngừng. Do vậy, đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng học hỏi để theo kịp sự phát triển và đổi mới của xã hội. Phần nhiều giáo viên là những người ham học hỏi, tích cực tìm ra phương pháp dạy học mới để đạt được kết quả cao nhất. Song do điều kiện, do còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ nên chưa tiếp cận được hết những phương pháp dạy học mới. Một số giáo viên còn trung thành và có thói quen dạy theo phương pháp cũ. Khi tiếp cận với phương pháp dạy học mới giáo viên thường quan niệm: trong các tiết dạy phải có hệ thống câu hỏi và buộc học sinh trả lời các câu hỏi ấy. Như vậy yêu cầu học sinh dùng một phương pháp thực hành nhiều cho nhớ và giáo viên khi dạy ít quan tâm đến đặc điểm tâm lí của các em học sinh Tiểu học đó là “Học mà chơi, chơi mà học”, các em khi học rất dễ nhớ nhưng cũng rất nhanh quên. 1. Thực trạng dạy học Tập đọc của các trường Tiểu học * Về phía giáo viên Qua quan sát và học hỏi thực tế tôi thấy rằng giáo viên chưa hiểu khái niệm “Đọc” một cách đầy đủ, khi dạy chưa bám sát vào mục đích, yêu cầu của từng bài. Do vậy họ chưa đạt được mục tiêu của một giờ Tập đọc. Có những giáo viên cho rằng dạy Tập đọc là chủ yếu dạy cho các em đọc to, rõ ràng là được. Phương pháp dạy Tập đọc của giáo viên có dạy theo đoạn, có các kiểu câu hỏi khác nhau song hình thức luyện đọc chỉ đơn thuần là đọc. Việc sử dụng đồ dùng còn hạn chế, giáo viên còn dạy “chay” chưa coi những phương tiện trực quan là cần thiết trong việc luyện đọc. Vì thế việc đọc đúng, đọc hay của học sinh còn hạn chế. * Về phía học sinh Qua khảo sát, điều tra và thực tế dạy trên lớp tôi thấy kĩ năng đọc đúng, hay của học sinh còn yếu. Học sinh học bài một cách thụ động, các em học một cách bắt buộc, chỉ có những học sinh khá, giỏi mới cố gắng đọc cho hay song vẫn chưa đạt yêu cầu. Khi đọc một số văn bản các em không ngắt nghỉ hơi đúng chỗ nên các em không nắm được điều gì là cốt yếu trong văn bản. điều này sẽ gây khó khăn trong việc hình thành kĩ năng giao tiếp.
  6. 2. Khảo sát việc học môn Tập đọc của học sinh lớp Sau khi dạy xong bài: “Mùa xuân đến” - Tiếng Việt tập , tôi đã xây dựng phiếu trắc nghiệm để khảo sát học sinh như sau: Phiếu điều tra học tập Họ và tên: Lớp: 1. Câu hỏi: A. Em có thích hay không thích học Tập đọc? Vì sao? B. Đọc đúng, đọc hay một bài văn hoặc một bài thơ giúp em cảm nhận được những điều gì? C. Em thích đọc bài tập đọc nào nhất? (văn xuôi, thơ )? Vì sao? 2. Bài tập A. Em hãy đọc các từ sau: Xoa đầu, chim sâu, say mê, xâu cá Trò chuyện, chung sức, cây tre Lao động, nàng tiên, làng bản, lịch sự b. Em hãy ngắt giọng, nhấn giọng và đọc diễn cảm đoạn văn sau: Chú chim sâu vui cùng vườn cây và các loài chim bạn. Nhưng trong trí nhớ thơ ngây của chú còn mãi hình ảnh một cánh hoa mận trắng, biết nở cuối đông để báo trước mùa xuân tới. Sau khi học sinh làm bài vào phiếu điều tra tôi đã thu lại để tìm hiểu, tổng hợp kết quả cụ thể như sau: Sĩ số lớp : em. 1. Câu hỏi khảo sát: a) - Số em thích học Tập đọc: 12 em = 41,4 %.
  7. - Số em không thích học tập đọc: 17 em = 58,6 %. Số em không thích học Tập đọc chiếm tỷ lệ khá cao. Tìm hiểu nguyên nhân, tôi thấy tất cả các em không thích học tập đọc đều có lý do: đọc chán, khó đọc và đọc không thấy hay. b) Các em không thích học Tập đọc thì không trả lời được câu hỏi thứ 2. Còn các em thích đọc Tập đọc thì trả lời câu hỏi 2 một cách giống nhau: Đọc đúng, đọc hay thì được các bạn khen, các bạn hay bảo đọc, các bạn hay hỏi bài. c) Với câu 3, khi được trả lời, đa số các em đều thích đọc thơ, không thích đọc văn xuôi, nhất là các bài dạng vè: Vè chim. 2. Bài tập: Sĩ Lớp Phát âm n/l Ngắt giọng Nhấn giọng Đọc diễn cảm số Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 29 14 48,3 15 51,7 16 55,2 13 44,8 17 58,6 12 41,4 10 34,5 19 65,5 * Một kết quả trắc nghiệm cho thấy số học sinh mắc lỗi phát âm, đọc ngắt giọng, nhấn giọng và đọc diễn cảm quá lớn. Nguyên nhân: - Hạn chế về tài liệu dạy Tập đọc: Hệ thống văn bản chưa mẫu mực, chưa có nhiều lợi thế để dạy đọc đúng, đọc ngắt giọng, nhấn giọng và đọc diễn cảm. - Câu hỏi và bài tập chỉ yêu cầu học sinh một phương thức hành động duy nhất: dùng lời. Điều này có nhiều hạn chế, số lượng học sinh làm việc trên lớp rất ít bởi một người nói phải có người nghe, không thể học sinh cùng nói, không tích cực hoá được hoạt động học của học sinh. Đây là nguyên nhân chính làm cho số lượng học sinh hoạt động tích cực trong giờ Tập đọc ít hơn giờ Toán. - Các câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa chủ yếu yêu cầu học sinh tái hiện lại các chi tiết của bài, ít câu hỏi học sinh suy luận. Nhiều câu hỏi bài tập mang tính áp đặt vì chúng ta nêu ra các bước trước cách hiểu học sinh chỉ còn là người nêu ra cho những nhận xét này.
  8. - Nguyên nhân chủ quan do chính các em đem lại. Tinh thần, thái độ học tập của các em còn yếu, do đặc điểm tâm lí của trẻ 7- 8 tuổi các em rất hiếu động, khả năng tập trung chưa cao. Trong khi đó để cho học sinh đọc đúng cách ngắt giọng, nhấn giọng, diễn cảm đòi hỏi nhiều ở tính kiên trì, nhẫn nại chịu khó. - Nguyên nhân không nhỏ nữa là một số em học sinh về nhà do bố mẹ chưa thực sự quan tâm. Ngoài ra giáo viên còn hạn chế bởi khả năng tiếp thu phương pháp dạy học mới rất khó khăn. Họ chỉ quen dạy theo phương pháp cũ. Đồ dùng dạy học phục vụ cho bài giảng còn thiếu. Khi học sinh đọc bài, giáo viên chưa chú ý đến chất lượng mà chỉ chú ý đến số lượng đọc, ít hướng dẫn cụ thể học sinh khi các em đọc sai. Bên cạnh đó giáo viên còn chưa chú ý đọc cho học sinh trong các giờ học, môn học khác. Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về khả năng đọc cho học sinh lớp như sau. NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH DẠY TẬP ĐỌC LỚP 1. Mục tiêu của việc rèn đọc trong giờ Tập đọc Môn Tập đọc ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực này được thể hiện thống nhất trong 4 hoạt động tương ứng với chúng là 4 chức năng: nghe, nói, đọc, viết. Như vậy, đọc là một hoạt động ngôn ngữ là quá trình chuyển dạng thức viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu chúng. Đọc không chỉ là công việc giải quyết một bộ mã (gồm 2 phần) chữ viết và âm thanh nghĩa là nó không phải chỉ là sự đánh vần lên thành tiếng theo đúng như kí hiệu chữ viết, mà còn là quá trình nhận thức, để có kĩ năng thông hiểu những gì đọc được. Trên thực tế nhiều khi người ta đã không hiểu khái niệm đọc một cách đầy đủ. Nhiều chỗ, người ta chỉ nói đến đọc như nói việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyền từ âm sang nghĩa đã không được chú ý đúng mực. Phần lớn những tri thức, kinh nghiệm của đời sống những thành tựu văn hoá khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu được nền văn minh của loài người. Không thể sống một cuộc sống bình thường, không thể làm chủ trong xã hội hiện đại. Ngược lại, biết đọc con người có thể dễ dàng tiếp thu nền văn minh của nhân loại. Vì thế, học có những hiểu biết, có khả năng chế ngự một phương tiện văn
  9. học cơ bản giúp cho họ giao tiếp với thế giới bên trong của người khác, đặc biệt khi đọc bài (Tập đọc, học thuộc lòng). Con người không chỉ thức tỉnh về nhận thức, mà còn rung động tình cảm nảy nở những ước mơ cao đẹp. Đọc khơi dậy tiềm lực hành động, sức sáng tạo, cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. Không biết đọc, con người sẽ không có điều kiện giáo dục mà xã hội dành cho họ. Họ chỉ hình thành một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời buổi bùng nổ thông tin, biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp con người ta sử dụng các nguồn thông tin. Đọc chính là học nữa, học mãi đọc để tự học, học cả đời. Chính vì vậy Tập đọc là một phân môn có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Nó trở thành một đòi hỏi cơ bản, đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc sau đó đọc để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập nó cũng là một công cụ để học các môn học khác nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Đồng thời nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học. Tập đọc là khả năng không thể thiếu của con người trong thời đại văn minh. Biết đọc sẽ giúp các em hiểu biết nhiều hơn, hướng các em tới cái thiện, cái đẹp, dạy cho học sinh biết cách suy nghĩ lô gíc, tư duy có hình ảnh. Như vậy việc dạy đọc có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì nó bao gồm nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Ở Tiểu học phân môn Tập đọc có một vị trí rất quan trọng, dạy tốt phân môn này là đáp ứng một trong bốn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Đối với học sinh lớp , việc rèn đọc vô cùng quan trọng nó giúp các em hiểu đúng nội dung văn bản. Giáo dục các em lòng yêu sách trở thành một thứ không thể thiếu được trong nhà trường và gia đình. Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ và tư duy cho các em, giáo dục tư tưởng tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ cho các em. Đọc là giáo dục lòng ham đọc sách hình thành phong cách và thói quen làm việc với sách của học sinh. Nói cách khác thông qua việc dạy đọc phải giúp cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi cho các em trong cuộc đời, phải làm cho các em thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. Ngoài việc dạy đọc còn có nhiệm vụ khác như:
  10. - Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, về đời sống và kiến thức về văn học cho học sinh. - Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh. - Giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh. - Giúp học sinh biết đọc để giao tiếp và giải trí. 2. Nội dung phân môn Tập đọc lớp a. Nội dung dạy Tập đọc lớp 2 - Quá trình tìm hiểu nội dung Sách giáo khoa Tiếng việt, tôi nhận thấy hầu hết các bài tập đọc đều là tác phẩm hoặc đoạn trích của những văn bản có giá trị nghệ thuật. Mỗi bài đã được các nhà viết sách lựa chọn nhằm cung cấp cho học sinh một kiến thức nhất định. Về nội dung của các bài Tập đọc lớp xoay quanh 6 chủ đề lớn: Nhà trường: 8 tuần - 24 tiết Gia đình: 6 tuần - 18 tiết Bạn trong nhà: 2 tuần - 6 tiết Thiên nhiên đất nước gồm 7 đơn vị: Bốn mùa, Chim chóc, Muông thú, Sông biển, Cây cối, Bác Hồ, Nhân dân, mỗi chủ điểm 2 tuần riêng chủ điểm Nhân dân 3 tuần. - Trong số các bài văn xuôi và thơ được đưa vào trong chương trình khá đồng đều. Văn xuôi 48,4%; thơ 51,6%. Nội dung các bài văn xuôi ngắn, dễ hiểu, dễ đọc và gần gũi với cuộc sống xung quanh các em. Văn xuôi gồm nhiều loại, nhiều dạng bài như: miêu tả, kể, vừa kể vừa tả hoặc có cả truyện ngắn. Thể loại thơ cũng rất phong phú chủ yếu là thơ vần, thơ lục bát, thơ 4 chữ, 5 chữ. Trong đó: Thơ lục bát chiếm 39,6%; Thơ 5 chữ chiếm 23% còn lại là thơ tự do và Ca dao. Những câu truyện kể, những bài văn xuôi rất gần gũi, gắn bó với cuộc sống xung quanh các em. Tạo cho các em có một niềm vui, hứng thú đọc và tìm hiểu như bài: (Ngày hôm qua đâu rồi?; Có công mài sắt có ngày nên kim; Bạn của Nai nhỏ) - Trong các bài Tập đọc việc sử dụng các biện pháp tu từ So sánh, Nhân hoá ngắn gọn, dễ hiểu tạo nên hình ảnh ngôn ngữ. Vì vậy nhờ sự phân loại các dạng bài Tập đọc đã góp phần giúp người giáo viên xác định được đặc trưng riêng của từng giọng điệu để hướng dẫn học sinh đọc tốt, đọc hay và nâng cao chất lượng cảm thụ cho học sinh bằng chính
  11. giọng đọc. - Về thể thơ trữ tình chiếm vị trí đa số. Các bài thơ được trích dẫn từ hình ảnh nhạc điệu quen thuộc, thiên về giáo dục tình cảm, đạo đức, yêu quê hương đất nước, gia đình, trường học, làng xóm. Giúp học sinh nâng cao kĩ năng cảm xúc thẩm mĩ, kích thích các em đọc đúng, đọc hay để khám phá cái hay, cái đẹp của văn chương. b. Phương pháp rèn đọc cho học sinh lớp Trong thực tế mỗi bài Tập đọc đều có hai phần lớn: Luyện đọc và tìm hiểu nội dung. Hai phần này có thể tiến hành cùng một lúc hoặc đan xen vào nhau hoặc cũng có thể dạy tách theo hai phần. Tuỳ theo từng bài mà giáo viên lựa chọn, dù dạy như thế nào thì hai phần này luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau, cần tìm hiểu bài giúp học sinh hiểu kĩ nội dung, nghệ thuật của bài. Từ đó các em đọc đúng, biết đọc ngắt giọng, nhấn giọng để thể hiện nội dung của bài, thể hiện những hiểu biết của mình xung quanh bài đọc. Vì vậy việc rèn đọc trong bài Tập đọc rất quan trọng, góp phần làm giàu vốn kiến thức ngôn ngữ vào đời sống và kiến thức văn học cho học sinh. Từ đó góp phần hình thành ở các em những phẩm chất, nhân cách tốt. Trong quá trình tìm hiểu bài cho học sinh phải biết tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của từng đoạn. Từ đó mới hiểu được nội dung của từng bài và tìm ra cách đọc tốt nhất (đọc thầm, đọc thành tiếng). Vì vậy người giáo viên phải từng bước hình thành cho học sinh cách đọc. Sau khi chia bài thành các đoạn giáo viên tiếp tục tổ chức, điều khiển, hướng dẫn tìm hiểu nội dung của từng đoạn bằng phương pháp như: Vấn đáp, trực quan, giảng giải và có thể sử dụng các loại kĩ thuật khác trong giờ dạy như giải nghĩa từ. Còn với học sinh mỗi đoạn, mỗi bài là một chủ thể luyện tập, các em phải được suy nghĩ, được nói lên ý nghĩa đó được luyện trong bài. Dạy Tập đọc cần dạy sát đối tượng, sát trình độ để đảm bào tính vừa sức. 3. Những phương pháp đã được áp dụng cho phân môn Tập đọc: * Phương pháp trực quan: Phương pháp này phù hợp với tư duy, tâm lý, lứa tuổi học sinh. Trực quan bằng giọng đọc của giáo viên. Giọng đọc mẫu của giáo viên là hình thức trực quan sinh động và có hiệu quả cao, có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc. Mỗi bài văn, bài thơ viết ở thể
  12. loại khác nhau. Có bài giọng đọc náo nức, phấn khởi; có bài giọng đọc trang nghiêm trầm lắng; có bài giọng đọc ân cần khuyên nhủ, nghĩa là mỗi bài một vẻ. Do đó giáo viên cần đọc đúng thể loại ngữ điệu, tránh đọc đều đều, không cảm xúc kết hợp biểu hiện tình cảm, qua ánh mắt, nét mặt, nụ cười. Khi giới thiệu bài nên dùng trực quan bằng tranh ảnh, vật thật giúp các em háo hức tìm hiểu và cảm thụ bài đọc. Trực quan bằng một đoạn văn chép sẵn được ngắt theo cụm từ để các em đọc ngắt hơi, nghỉ hơi đúng chỗ. Có thể trực quan bằng cách nghe giọng đọc hay của học sinh trong lớp. * Phương pháp đàm thoại Phương pháp này phù hợp với tâm lí trẻ nhỏ. Các em thích hoạt động ( hoạt động lời nói) giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài để học sinh trả lời tìm ra cái hay của tác phẩm. Muốn đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc diễn cảm trước tiên phải đọc tốt (đọc lưu loát, rõ ràng) và cảm thụ tốt bài văn bằng những câu hỏi đàm thoại để hiểu phương pháp luyện đọc. Phương pháp này đựợc dùng chủ yếu trong giờ Tập đọc dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh luyện đọc nhiều lần. Phương pháp dùng phiếu bài tập có thể thấy ngay lỗi mà học sinh thường mắc qua việc yêu cầu học sinh đọc đúng một đoạn văn, thơ ngắn với những âm thanh, vần dễ lẫn. Tóm lại để giờ học đạt hiệu quả cao thì người giáo viên phải sử dụng linh hoạt các phương pháp trên một cách hợp lý sao cho giờ học không bị ngắt quãng, gián đoạn. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn các em tìm ra cách đọc, luôn lấy học sinh làm trung tâm. 4. Yêu cầu về kiến thức kĩ năng học sinh cần đạt được sau khi học phân môn Tập đọc: Tập đọc là một môn học mang tính chất tổng hợp, vì ngoài nhiệm vụ dạy đọc nó còn có nhiệm vụ trau rồi kiến thức về Tiếng Việt. Cho nên sau khi học môn Tập đọc yêu cầu học sinh cần đạt được là: Rèn kĩ năng đọc (đọc đúng, đọc diễn cảm) Biết ngắt giọng, nhấn giọng Cảm thụ tốt bài văn
  13. Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp yêu cầu học sinh phải đọc rõ ràng, rành mạch. Không đọc lí nhí, giọng quá nhỏ, không dừng lâu quá để đánh vần, nghỉ hơi ở dấu chấm, dấu phẩy, chỗ cần tách ý. Biết đọc liền các tiếng trong từ ghép, từ láy hoặc cụm từ cố định. Ngoài ra còn biết đọc đúng giọng câu kể, câu hỏi, câu cảm biết phân biệt lời dẫn chuyện với lời đối thoại. Dù đọc ở mức độ nào cũng đều yêu cầu phát âm đúng. Khi đọc thầm yêu cầu học sinh phải luyện thành thói quen để tạo được hứng thú khi đọc sách báo. Cảm thụ bài đọc đối với học sinh lớp không yêu cầu khai thác sâu, kĩ bài văn bài thơ mà học sinh chỉ cần nắm được ý để trả lời các câu hỏi. B. NỘI DUNG I. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP QUA PHÂN MÔN TẬP ĐỌC Trên cơ sở lí luận của việc dạy học nói chung và dạy môn Tập đọc nói riêng. Tôi nhận thấy thực tiễn dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu dạy học ở Tiểu học. Để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm có trong thực tế, tôi xin đưa ra một số biện pháp mà tôi áp dụng có hiệu quả của việc dạy học (đọc thầm, đọc thành tiếng). 1. Luyện phát âm Muốn học sinh đọc đúng, đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc diễn cảm người giáo viên phải giúp các em phát âm chuẩn, đọc đúng loại câu, đúng ngữ điệu câu. Giúp các em tự hiểu nội dung bài, xác định đúng loại câu, ngữ điệu, giúp các em phải biết đặt mình vào vị trí của nhân vật, của tác giả. Ngoài ra còn phải biết cách tổ chức một giờ học nhẹ nhàng, sinh động. Xây dựng phong trào thi đua đọc đúng, đọc hay, ngoài ra kết hợp với việc rèn đọc trong tất cả các môn học khác giúp các em tích cực hoá việc học môn Tiếng Việt. Như chúng ta đã biết cả giáo viên, học sinh tỉnh nói chung và giáo viên Tiểu học nói riêng đặc biệt là học sinh nông thôn khi nói và đọc đều mắc một sai lầm là đọc ngọng, thiếu dấu, đọc, nói lẫn giữa phụ âm đầu là l- n hoặc với những tiếng có phụ âm quặt lưỡi như s - x; r-d; ch - tr đều đọc cố nhấn để phát âm cho rõ nên làm mất cái hay, cái tự nhiên khi đọc. Điều này làm cho các em cảm thấy xấu hổ mất tự tin khi đọc, hạn chế việc đọc của các em mất đi sự hứng thú với môn học này. Mà quy trình dạy tập đọc theo hướng đổi mới của lớp như chúng ta đều nắm được gồm các bước chính sau:
  14. + Luyện đọc đúng + Tìm hiểu nội dung + Luyện đọc nâng cao (rèn đọc hay, dọc diễn cảm) Chính vì vậy khi dạy Tập đọc chúng ta phải chú ý quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp mình và khi dạy học chúng ta phải phụ thuộc vào trình độ của học sinh, phải hướng dẫn cho các em đọc đúng, phát âm chuẩn. Nếu học sinh đọc chưa tốt, đọc còn ngọng, sai và ấp úng thì giáo viên phải dừng lại ở bước 1 là luyện đọc đúng. Nếu học sinh đọc đúng, đọc tốt rồi thì giáo viên dành cho luyện đọc nâng cao (bước 3). Động viên các em và giao nhiệm vụ cho cả lớp cùng giúp bạn bằng cách không trêu ghẹo, đùa mà tạo cơ hội cho bạn sửa chữa. Qua tìm hiểu tôi thấy đại đa số các em đọc ngọng là do các nguyên nhân sau: + Do môi trường sống (nhiều hơn) + Do bộ máy phát âm (ít hơn) + Do phương ngữ Chính vì vậy để sửa cho các em đọc đúng người giáo viên phải kiên trì liên tục và có hệ thống. Thông thường các em rất ngại đọc vì sợ các bạn chê cười, chế nhạo cho nên người giáo viên phải giải toả tâm lí cho học sinh bằng lời lẽ của mình. Đồng thời phải giải thích cho học sinh cùng lớp để các em cùng giúp bạn sửa chữa. Cách sửa đọc ngọng cho học sinh: Trước hết giáo viên phải nắm chắc được nghĩa của các từ có phụ âm hay đọc ngọng như l- n để định hình được lời nói và chữ viết. Giáo viên cần xem lại phương thức phát âm phụ âm đầu l- n và tự mỗi giáo viên phải luyện bằng thời gian dài và phải kiên trì. Khi học sinh đọc lẫn các tiếng có phụ âm đầu là l, giáo viên dừng lại sửa cho các em bằng cách: hướng dẫn các em đọc đầu lưỡi hơi cong, luồng hơi đi ra bị cản Ví dụ những tiếng có phụ âm đầu n đọc đầu lưỡi thẳng, môi trề, bụng hơi hóp lại. Những tiếng có âm quặt lưỡi như s - x; r - d- gi; tr- ch thì hướng dẫn các em nói tự nhiên cho hay, (không cố gắng đọc nhấn). Nhưng trong Tiếng Việt có phụ âm đầu là r (là phụ âm quặt lưỡi) thì chúng ta đọc không rung.
  15. Ví dụ: Như từ: ra vào, rang lạc, rực rỡ, rung rinh. Giáo viên đọc rung những tiếng là tiếng nước ngoài ,ví dụ: Ra đi ô, Ngoài việc sửa chữa trong mỗi tiết Tập đọc và các môn học khác, thì cuối mỗi buổi học tôi còn giao những bài tập đọc nhỏ để học sinh tự luyện đọc ở nhà và về nhà đọc trước bài của ngày hôm sau. Hàng ngày kiểm tra về cách đọc của học sinh và nhận xét. Quá trình này tôi thực hiện thường xuyên và luôn khuyến khích các em. Một số mẹo sửa lỗi phát âm l/n * Phát hiện các dạng lỗi phát âm: Lỗi thay thế phụ âm đầu /l/-/n/ xảy ra ở ba trường hợp: - Trường hợp 1: Thay thế âm cố định /l/ thành /n/ (ví dụ: “lạnh lẽo” thành ‘nạnh nẽo”). - Trường hợp 2: Thay thế âm cố định /n/ thành /l/ (ví dụ: “núi non” thành “lúi lon”). - Trường hợp 3: Thay thế âm bất định, nghĩa là khi đúng khi sai, lẫn lộn không thể phân biệt, ví dụ: “lúa nếp làng” phát âm thành “núa lếp làng”. * Cách chữa lỗi phát âm lệch chuẩn l/n; Bàn về việc trị liệu, sửa chữa và luyện tập để phát âm chuẩn hai âm này, có nhiều cách phân biệt l-n khi nói và viết tiếng Việt. Trong bài viết này, xin giới thiệu một số kĩ thuật (thường được gọi là “mẹo”) của một số nhà ngôn ngữ tiếng Việt đã gợi ý trong nhiều tài liệu ngôn ngữ tiếng Việt khác nhau. Ngoài ra, với chuyên môn về trị liệu âm ngữ, sẽ đề cập đến những cách phân biệt l-n trong khi nói và viết tiếng Việt dưới góc độ âm ngữ trị liệu tiếng Việt ở một bài viết khác. + Mẹo phân biệt viết con chữ l-n: Để cho dễ phân biệt về con chữ khi viết, mẹo “l cao, n thấp” được sử dụng để mô tả chiều cao của hai con chữ thể hiện hai âm này. Nhưng nhiều người đã biến tấu thành mẹo “n thấp, n cao” hoặc “l thấp, l cao” dựa vào cách phát âm của chính mình. Thực chất, mẹo này chỉ phần nào giúp phân biệt khi viết con chữ hơn là khi nói. Ngược lại, khi bị biến tấu, mẹo này lại làm cho người nói càng lẫn hơn khi phát ngôn + Mẹo phân biệt l-n khi nói và viết theo quy tắc cấu tạo âm tiết tiếng Việt
  16. Dựa trên cơ sở/quy tắc kết hợp trong cấu tạo âm tiết, 7 mẹo nêu dưới đây liệt kê hệ thống từ vựng có phụ âm đầu là /l/ và /n/ để khi nói hay viết sẽ không lẫn nhau. Mẹo thứ nhất: Trong âm tiết, /l/ chỉ đứng trước âm đệm nhưng /n/ thì không (trừ trường hợp đặc biệt “noãn bào”). Ví dụ, những từ sau phải phát âm là l: cái loa, chói lòa, loan phượng, vết dầu loang, nói lưu loát, luẩn quẩn, loắt choắt, loanh quanh, luật pháp, luyến tiếc, Mẹo thứ hai: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong một từ láy vần mà phụ âm này xuất hiện ở tiếng thứ nhất thì đó chắc chắn là phụ âm /l/. Có thể liệt kê ra các từ láy vần bắt đầu bằng phụ âm /l/ như sau: lệt bệt, lò cò, lộp độp,lúi húi, lai dai, lơ mơ, lã chã, lăng xăng, lon ton, lai rai, lởn vởn, lênh khênh, lăng nhăng, luẩn quẩn, lằng nhằng, loằng ngoằng, Theo danh sách đầy đủ thì kiểu láy vần bắt đầu bằng /l/ như trên có khoảng hơn 300 từ. Mẹo thứ ba: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong một từ láy vần mà phụ âm đầu của tiếng thứ nhất là /z/ (gi,d) và phụ âm này xuất hiện ở tiếng thứ hai thì đó chắc chắn là phụ âm /n/, ví dụ: gian nan, gieo neo, Mẹo thứ tư: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong một từ láy vần mà phụ âm này xuất hiện ở tiếng thứ hai và phụ âm đầu của âm tiết thứ nhất không phải là /z/ (gi, d) thì đó là phụ âm /l/ (trừ trường hợp: khúm núm, khệ nệ, ), ví dụ: cheo leo, khoác lác, Mẹo thứ năm: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong từ láy vần mà tiếng thứ nhất khuyết phụ âm đầu thì phụ âm đầu của tiếng thứ hai là /n/, ví dụ: ăn năn, ảo não, áy náy, Mẹo thứ sáu: Những từ không phân biệt được là /l/ hay /n/ nhưng đồng nghĩa với một từ khác viết với /nh/ thì viết là /l/, ví dụ: lăm le- nhăm nhe; lố lăng-nhố nhăng; lỡ làng – nhỡ nhàng;lài-nhài; lời-nhời; lầm-nhầm, Mẹo thứ bẩy: Trong từ láy phụ âm đầu thì cả hai tiếng trong từ láy đó phải cùng là một phụ âm. Do vậy, chỉ cần biết một tiếng bắt đầu bằng /l/ hay /n/ mà suy ra tiếng kia: Ví dụ: đều là l: lung linh, long lanh, lạnh lùng, Đều là n: no nê, nõn nà, núng nính, Mẹo liệt kê hệ thống từ vựng có phụ âm đầu /l/ và /n/ theo bẩy mẹo kể trên đã hệ thống hóa được một lượng từ vựng nhất định để người sử dụng không nhầm lẫn khi nói và viết.