Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp chỉ đạo giáo viên thực hiện các kỹ thuật tổ chức hoạt động học của học sinh

doc 28 trang Ngọc Huệ 24/12/2024 920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp chỉ đạo giáo viên thực hiện các kỹ thuật tổ chức hoạt động học của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_chi_dao_giao_vien_thu.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp chỉ đạo giáo viên thực hiện các kỹ thuật tổ chức hoạt động học của học sinh

  1. 1 MỤC LỤC Phần 1. MỞ ĐẦU trang 2 1. Mục đích của sáng kiến trang 2 2. Những đóng góp của sáng kiến trang 5 Phần 2. NỘI DUNG trang 6 Chương I: Cơ sở khoa học của sáng kiến trang 6 1. Cơ sở lí luận trang 6 2. Cơ sở thực tiễn trang 7 Chương II: Thực trạng vấn đề sáng kiến đề cập trang 9 Chương III: Những giải pháp chính trang 11 Chương IV: Kiểm chứng các giải pháp đã nêu trang 24 Phần 3. KẾT LUẬN trang 26 1. Những vấn đề quan trọng nhất mà sáng kiến đã đề cập trang 26 2. Hiệu quả của sáng kiến nếu được triển khai trang 26 3. Những kiến nghị, đề xuất trang 26 Phần 4. PHỤ LỤC trang 28 QUY ƯỚC VIẾT TẮT GV: giáo viên HS: học sinh
  2. 2 Phần 1. MỞ ĐẦU 1. Mục đích của sáng kiến. Mục tiêu của Giáo dục phổ thông được Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: “ tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời " Giáo dục Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Để có nguồn nhân lực có chất lượng cao không chỉ là nhiệm vụ của giáo dục Đại học, giáo dục nghề nghiệp, mà ngay ở giáo dục phổ thông phải chú trọng hình thành và phát triển những năng lực, phẩm chất cần thiết của người lao động. Do vậy, mục tiêu của giáo dục chuyển từ trang bị kiến thức phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Mục tiêu của giáo dục thay đổi đòi hỏi phương pháp giáo dục phải thay đổi, trong đó phương pháp tổ chức dạy học của giáo viên và phương pháp học của học sinh. Để cụ thể hoá mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng, ngày 28 tháng 8 năm 2014 Bộ Giáo dục vào Đào tạo đã ban hành Thông tư số 30/TT-BGDĐT Quy định đánh giá
  3. 3 học sinh tiểu học. Tiếp đó, ngày 28 tháng 9 năm 2016 Bộ Giáo dục và Đạo tạo ban hành Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT Quy định về đánh giá học sinh tiểu học thay thế cho Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT. Các văn bản này đã quy định việc chuyển từ đánh giá về kết quả lĩnh hội kiến thức, kỹ năng sang đánh giá kết quả hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh. Các văn bản này cũng là tiền đề định hướng để giáo dục tiểu học chuyển dần về phương pháp giáo dục đáp ứng mục tiêu giáo dục theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018. Thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục là nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục nói chung, nhà trường tiểu học nói riêng mà vai trò chỉ đạo của người cán bộ quản lý là hết sức quan trọng. Thực hiện chỉ đạo của Phòng Giáo dục và Đào tạo, năm học 2013 – 2014, Trường Tiểu học Quảng Phú số 2 thực hiện thử nghiệm mô hình trường học mới ở khối 2; năm học 2014 – 2015 thực hiện ở 4 khối lớp từ khối 2 đến khối 5 với 12 lớp, 313 học sinh; năm học 2015 – 2016 thực hiện từ khối 2 đến khối 5 với 301 học sinh, năm học 2016 – 2017 tiếp tục thực hiện với 293 học sinh với 12 lớp từ khối 2 đên khối 5. Đây là mô hình dạy học có nhiều điểm mới, đó là đổi mới tổ chức lớp học để tăng cường tính tự quản của học sinh; đổi mới cách học của học sinh theo hướng chủ động, tự giác, tích cực; đổi mới cách tổ chức dạy của giáo viên; đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh và đặc biệt là chú trọng sự hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của người học. Bắt đầu từ năm học 2017-2018, nhà trường thực hiện áp dụng những thành tố tích cực của phương pháp dạy học theo mô hình VNEN với chương trình giáo dục theo Quyết định số 16/2006/QĐ ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (chương trình hiện hành). Việc áp dụng đổi mới phương pháp dạy học trong khi sách giáo khoa của chương trình hiện hành được biên soạn theo hướng trang bị kiến thức nên ít nhiều cả cán bộ quản lí và giáo viên đều bỡ ngỡ, vướng mắc, khó thực hiện, đòi hỏi mỗi cán bộ quản lí và giáo viên phải nghiên cứu tài liệu, tìm tòi cách thực hiện, rút kinh nghiệm qua thực tế dạy học và giáo dục để đạt kết quả tốt nhất. Qua một số năm thực hiện với cương vị chỉ đạo chuyên môn
  4. 4 của nhà trường, tôi rút ra Một số kỹ thuật tổ chức hoạt động học của học sinh và chỉ đạo thực hiện trong phạm vi của nhà trường. Đến năm học 2020-2021, qua thực tiễn chỉ đạo, điều chỉnh, tổng kết, rút kinh nghiệm, tôi mạnh dạn đưa ra Một số giải pháp chỉ đạo giáo viên thực hiện các kỹ thuật tổ chức hoạt động học của học sinh. * Điểm mới của sáng kiến: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, giáo dục phổ thông nói chung, giáo dục tiểu học nói riêng trong phạm vi cả nước đang thực hiện đổi mới đồng bộ về mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị và đánh giá chất lượng giáo dục: từ mục tiêu chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển năng lực và phẩm chất của HS; từ nội dung nặng tính hàn lâm sang nội dung có tính thực tiễn cao; từ phương pháp truyền thụ một chiều sang phương pháp dạy học tích cực; từ hình thức dạy học trên lớp là chủ yếu sang kết hợp đa dạng các hình thức dạy học trong và ngoài lớp học, trong và ngoài nhà trường, trực tiếp và trực tuyến; từ hình thức đánh giá tổng kết là chủ yếu sang coi trọng đánh giá trên lớp và đánh giá quá trình; từ GV đánh giá HS là chủ yếu sang tăng cường việc tự đáng giá và đánh giá lẫn nhau của HS. Như vậy, khác với dạy học định hướng nội dung, dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS là tổ chức cho HS hoạt động học. Trong quá trình dạy học, HS là chủ thể nhận thức, GV có vai trò tổ chức, kiểm tra, hỗ trợ hoạt động học tập của HS một cách hợp lý sao cho HS tự chủ chiếm lĩnh, xây dựng tri thức. Quá trình dạy học là quá trình hoạt động của GV và của HS trong sự tương tác thống nhất giữa GV, HS và tư liệu hoạt động dạy học. Rút kinh nghiệm chỉ đạo chuyên môn qua các năm học trước, năm học 2021–2022, thực hiện chỉ đạo công tác chuyên môn theo những kinh nghiệm đúc rút được, giáo viên và học sinh của trường tôi đã thực hiện dạy – học có hiệu quả tiến bộ rõ rệt: Giáo viên thực sự là người tổ chức các hoạt động dạy học và hỗ trợ học sinh khi cần thiết; học sinh chủ động, tự giác, tích cực hoạt
  5. 5 động tự học, tương tác tự chiếm lĩnh kiến thức mới, chất lượng các môn học và các hoạt động giáo dục tăng lên rõ rệt. Hi vọng với những kỹ thuật tổ chức các hoạt động của học sinh tôi đưa ra trong khuôn khổ sáng kiến sẽ giúp các đồng nghiệp chia sẻ và thực hiện trong các trường tiểu học để nâng cao chất lượng giáo dục và thực hiện có hiệu quả Chương trình Giáo dục phổ thông 2018. 2. Những đóng góp của sáng kiến. Qua các năm học từ 2017 – 2018 đến 2020 – 2021, thực hiện những biện pháp mà sáng kiến đề ra trong khuôn khổ Trường Tiểu học Quảng Phú số 2 chúng tôi thu được một số kết quả: - Năng lực học tập của học sinh được nâng cao. Các em biết thực hiện các hoạt động học tập một cách chủ động, tự giác, tích cực; biết tương tác, trao đổi với bạn, thầy cô để chiếm lĩnh kiến thức; biết tự đánh giá và đánh giá bạn. Các em thực sự là chủ thể của hoạt động học. - Năng lực giao tiếp được phát triển. Qua trao đổi, tương tác với bạn trong cặp, nhóm hay lớp các em mạnh dạn, tự tin chia sẻ ý kiến trước cặp, nhóm và trước lớp; bước đầu các em đã biết trình bày vấn đề, biết lập luận để bảo vệ ý kiến mà mình đưa ra; giờ học trở nên nhẹ nhàng, thân thiện hơn. - Năng lực tự quản, điều hành của học sinh được phát triển. Dạy học phương pháp tổ chức hoạt động học tập của học sinh lấy đơn vị nhóm là đơn vị học tập cơ bản, trong đó đề cao việc tự học của mỗi cá nhân. Nhóm trưởng điều hành mọi hoạt động học tập, tương tác trong nhóm nên các em nhóm trưởng hằng ngày, hằng giờ thực hiện công việc điều hành nhóm mình hoạt động. Nhóm trưởng được các thành viên của nhóm luân phiên thực hiện nên đa số các em được hình thành và phát triển năng lực lãnh đạo, điều hành. - Học sinh được phát triền năng lực đánh giá và tự đánh giá. Trong mỗi tiết học, học sinh được tương tác với bạn không chỉ để tìm ra kiến thức mới. Việc tương tác giúp các em tìm kiếm sự ủng hộ, đồng thuận của bạn bè và thầy cô giúp các em tự đánh giá được mình; việc chia sẻ, nhận xét những vấn đề mà bạn nêu ra gúp các em biết đánh giá bạn. Từ đó các em biết mình cần phát huy
  6. 6 ưu điểm gì và phải khắc phục nhược điểm gì. Đó là cái cốt lõi của sự tiến bộ ở học sinh. - Giáo viên thực sự thoát khỏi việc truyền thụ kiến thức một chiều đơn điệu. Trong từng tiết học, giáo viên trở thành người hướng dẫn tổ chức các hoạt động học, hỗ trợ học sinh (nhóm học sinh) khi cần thiết và kết luận vấn đề, kiến thức làm điểm tựa niềm tin cho học sinh. Phần 2. NỘI DUNG Chương I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA SÁNG KIẾN 1. Cơ sở lí luận Xưa nay, dạy học ở nước ta chỉ hiểu học là được hướng dẫn rồi làm theo, nghĩa là phải có người hướng dẫn, chỉ bảo để người học biết và làm theo. Nếu chấp nhận "chân lý" trực quan đó, thì chẳng phải làm gì thêm, cũng chẳng cần đổi mới gì. Nhưng qui luật của xã hội là phát triển, mà chủ thể xã hội là con người, giáo dục phải tạo ra con người có đủ năng lực đáp ứng các nhu cầu phát triển của xã hội. Chính vì vậy giáo dục không những phải đổi mới mà còn phải đổi mới trước để đón đầu sự phát triển của xã hội. Trước yêu cầu đổi mới về Giáo dục và Đào tạo, chúng ta đã thử nghiệm nhiều mô hình dạy học, nhiều phương pháp dạy học mới song chưa đạt được hiệu quả rõ rệt và không được sự ủng hộ của toàn xã hội. Thấu hiểu điều này, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành TW Đảng khóa XI đã ban hành nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về Đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Việc đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục và Đào tạo dựa trên nền tảng là đổi mới cách dạy, cách học. Đổi mới cách dạy và cách học thực hiện được thì phải đổi mới về sách giáo khoa, về cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học. Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngành Giáo dục và Đào tạo nước nhà đã xác định mục tiêu là tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cho sự nghiệp công
  7. 7 nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, giáo dục phổ thông nói chung, giáo dục ở cấp tiểu học nói riêng phải chú trọng hình thành và phát triển những năng lực, phẩm chất cốt lõi ở học sinh. Các phương pháp dạy học truyền thống đã được các thế hệ giáo viên thực hiện và lưu truyền thành lối mòn cố hữu khó thay đổi. Giáo viên đóng vai trò là người truyền đạt kiến thức, kỹ năng cho học sinh; học sinh thụ động lĩnh hội kiến thức và thực hành kiến thức theo cách có sẵn mà giáo viên truyền đạt nên thiếu tính sáng tạo, gặp tình huống mới là không biết hướng giải quyết. Đổi mới mục tiêu giáo dục đòi hỏi phải đổi mới cách dạy, cách học - tức là đổi mới phương pháp dạy học. Trước hết, người giáo viên phải đổi mới cách dạy học, phải đổi mới vai trò từ người truyền thụ kiến thức-kỹ năng sang tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học của học sinh. Học sinh được giao nhiệm vụ, chủ động, tự giác thực hiện nhiệm vụ bằng vốn kinh nghiệm, kiên thức đã có, được trao đổi, tương tác để hoàn thành nhiệm vụ, được đánh giá kết quả của mình. Phương pháp dạy học tổ chức các hoạt động của học sinh đáp ứng các yêu cầu trên. Để thực hiện phương pháp dạy học này thì đỏi hỏi ngay người giáo viên phải chủ động, linh hoạt, sáng tạo để thiết kế các hoạt động, định hướng cách tổ chức cho mỗi hoạt động trong mỗi bài dạy. Từ các hoạt động học được giáo viên thiết kế, tổ chức, điều hành tạo cơ hội cho học sinh tự giác, tích cực, chủ động thực hiện các hoạt động trải nghiệm-khám phá, luyện tập-thực hành và vận dụng kiến được học vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Do đó, vai trò của công tác quản lí, chỉ đạo chuyên môn trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở mỗi trường đóng vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục của nhà trường. 2. Cơ sở thực tiễn: Để nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường nói chung và trong trường hiểu học nói riêng, nhà trường phải có những biện pháp tổ chức quản lý, chỉ đạo sâu sát phù hợp với tình hình thực tiễn của nhà trường, với trình độ năng lực của đội ngũ giáo viên, nhất là phương pháp tổ chức dạy học.
  8. 8 Với xu hướng “Dạy thật - học thật - chất lượng thật”, “dạy theo hướng phân hóa đối tượng”, dạy học nhằm hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của người học trong nhà trường hiện nay thì kỹ thuật tổ chức các hoạt động học của học sinh cần được chú trọng và thường xuyên thực hiện. Dạy học theo phương pháp tổ chức các hoạt động học tập của học sinh là luận điểm then chốt của dạy học hiện đại, là bản chất của đổi mới phương pháp dạy - học. Ưu điểm nổi bật của phương pháp dạy học này là rèn luyện cho học sinh sự tự tin, tích cực, bản lĩnh chủ động xử lý các tình huống trong cuộc sống. Sau một thời gian triển khai thử nghiệm, tổng kết, rút kinh nghiệm, rất nhiều tác giả, với những công trình khoa học của mình, đã công bố những kết luận, những bài học kinh nghiệm về bản chất cũng như thực trạng của quan điểm dạy học mới này. Việc dạy học theo phương pháp tổ chức các hoạt động của học sinh phù hợp với việc đổi mới mục tiêu giáo dục, giúp cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh. Đồng thời giúp cho người giáo viên đánh giá đúng những năng lực, phẩm chất của học sinh qua từng tiết học, khâu soạn giảng trở nên nhẹ nhàng hơn, giáo viên có nhiều thời gian đầu tư nghiên cứu bài dạy. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện không thể không gặp những khó khăn cần vượt qua như sau: Sách giáo khoa, tài liệu của chương trình giáo dục phổ thông hiện hành được biên soạn theo quan điểm chú trọng cung cấp kiến thức cho học sinh và mục tiêu đánh giá học sinh chú trọng vào đánh giá về kiến thức nên khi chuyển mục tiêu sang đánh giá phẩm chất năng lực khiến không ít giáo viên gặp khó khăn trong phương pháp, kỹ thuật tổ chức dạy học. Năng lực, phẩm chất của HS chỉ được hình thành, phát triển và biểu hiện thông qua hoạt động. Cho nên, trong quá trình dạy học, người giáo viên phải thiết kế bài học thành các hoạt động cụ thể để học sinh được tham gia thực hiện, từ đó các năng lực, phẩm chất của học sinh được bộc lộ. Giáo viên nắm bắt, đánh giá được năng lực, phẩm chất của từng học sinh để làm căn cứ điều chỉnh, hình thành và phát triển phù hợp với mục tiêu giáo dục. Muốn vậy, người giáo
  9. 9 viên phải nắm chắc và thực hiện thành thạo các kỹ thuật tổ chức các hoạt động học của học sinh. Chương II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ SÁNG KIẾN ĐỀ CẬP. Trường Tiểu học Quảng Phú số 2 – nơi tôi công tác - đóng trên địa bàn nông thôn. Từ xa xưa, người dân địa phương đã có nghề đúc đồng truyền thống nên kinh tế khá phát triển. Lẽ ra đây là điều kiện để văn hóa – giáo dục của địa phương phát triển nhưng trình độ dân trí ở đây không đều, nhiều cha mẹ học sinh chỉ học hết lớp 2, lớp 3, thậm chí không biết chữ do sớm bỏ học để làm nghề phụ. Năm học 2020-2021 mới là năm thứ hai tiến hành thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, nên người dân (nhất là phụ huynh học sinh) còn chưa hiểu rõ mục tiêu, nội dung của chương trình, chưa hiểu rõ cách biên soạn, thiết kế bài học của sách giáo khoa. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục học sinh, đặc biệt là hỗ trợ học sinh các hoạt động ứng dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống hàng ngày. Môi trường giáo dục của nhà trường an toàn, thân thiện đảm bảo cho thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018. Nhà trường đã chuẩn bị tốt các điều kiện cho việc triển khai thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018 như bố trí đủ lớp học, bổ sung bàn ghế phù hợp, tất cả cán bộ quản lí và giáo viên đều tham gia bồi dưỡng, tập huấn chương trình giáo dục phổ thông 2018, sách giáo khoa ở đủ các cấp Bộ, Sở, Phòng. Việc tổ chức dạy học theo phương pháp tổ chức các hoạt động của học sinh cơ bản đã đi vào nề nếp. Ban Giám hiệu nhà trường đã bám sát các văn bản hướng dẫn của Bộ, Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo để tổ chức thực hiện có hiệu quả. Giáo viên đã biết thiết kế và tổ chức các hoạt động học tập để phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, tự tìm tòi, khám phá kiến thức của học sinh. Đã xây dựng được nền nếp, kỹ năng học tập. Biết huy động sự tham gia của cha mẹ học sinh, của cộng đồng để hỗ trợ các hoạt động giáo dục. Học sinh đã quen dần với cách học mới, các em đã biết tự đọc tài liệu, tự tìm tòi, nghiên cứu và hợp tác, chia sẻ với các bạn trong nhóm để chiếm lĩnh kiến thức. Học sinh ngày càng mạnh dạn, tự tin và phát triển tốt các kỹ năng sống. Cha mẹ học sinh và chính
  10. 10 quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể đã tích cực hỗ trợ nhà trường. Tuy nhiên trong quá trình chỉ đạo thực hiện tôi thấy vẫn còn những hạn chế như sau: Công tác tập huấn, bồi dưỡng cho giáo viên còn bất cập do trong năm học có sự điều động, luân chuyển giáo viên. Việc tập huấn thường tổ chức tập trung vào đầu năm học, nhưng có những giáo viên được điều động về sau nên đòi hỏi Ban Giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn phải mất nhiều thời gian để tập huấn và bồi dưỡng. Một số giáo viên đã quen với phương pháp dạy học truyền thống nên trong quá trình tổ chức hoạt động học cho học sinh còn truyền thụ và giảng giải nhiểu. Việc hướng dẫn học sinh làm và sử dụng các đồ dùng học tập trong lớp đôi khi còn hình thức. Một số giáo viên tổ chức lớp học còn dập khuôn, ít sáng tạo. Giáo viên ít có thời gian để bồi dưỡng thêm kiến thức nâng cao cho học sinh giỏi. Một số học sinh kỹ năng giao tiếp hạn chế, rụt rè. Một số trưởng nhóm kỹ năng điều hành, chỉ đạo nhóm chưa tốt. Một số cha mẹ học sinh chưa quan tâm, đôn đốc con em học tập, ý thức hợp tác với nhà trường còn thấp. Mặt khác, thời gian thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018 mới là năm thứ hai, nên một số cán bộ, giáo viên chưa thật sự nội dung, chưa thấu hiểu mục tiêu giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở cấp tiểu học. Đối với chương trình giáo dục hiện hành, sách giáo khoa biên soạn theo mục tiêu trang bị kiến thức nên việc thiết kế các hoạt động trong Kế hoạch bài và tổ chức các hoạt động của học sinh của giáo viên còn gặp hiều khó khăn, các hoạt động còn chưa thật tự nhiên, hiệu quả phối hợp giữa học tập cá nhân và học tập tương tác trong nhóm chưa cao. Giáo viên chưa nắm chắc các kỹ thuật toor chức hoạt động, việc phối hợp các phương pháp dạy học trong mối hoạt động chưa linh hoạt, chưa nhuần nhuyễn, một số giáo viên lớn tuổi, đã quá quen với lối dạy học truyền thống nên khi tiếp cận với cách dạy học tổ chức hoạt động của học sinh còn gặp khó khăn lúng túng. Một số phụ huynh học sinh chưa thực sự hiểu rõ về phương pháp học mới nên còn có phần e ngại. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do phương pháp dạy học truyền thống đã đi sâu vào tiềm thức của đa số đội ngũ các nhà giáo. Phương pháp học thụ động của học sinh từ trước đến nay cũng là một cản trở lớn cho đối mới phương
  11. 11 pháp học. Dạy học theo phương pháp tổ chức các hoạt động học tập của học sinh đòi hỏi phải có biện pháp chỉ đạo thực hiện cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Chương III: NHỮNG GIẢI PHÁP CHÍNH Giải pháp 1: Làm cho giáo viên nắm chắc chương trình giáo dục phổ thông 2018 và các văn bản chỉ đạo của các cấp. Khi bắt đầu áp dụng thực hiện phương pháp dạy học tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, không ít giáo viên, cha mẹ học sinh đã không đồng tình, nhiều giáo viên ngại đổi mới vẫn soạn giảng theo lối truyền thống. Trước tình hình đó, nhà trường đã tổ chức Hội nghị chuyên môn để tuyên truyền, quán triệt về những lợi ích mà phương pháp dạy học tổ chức các hoạt động học tập của học sinh mang lại. Đó là đi trước đón đầu việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018, đáp ứng được mục đích đánh giá học sinh theo Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT, tạo cơ hội cho học sinh được bộc lộ phẩm chất, năng lực. Từ đó, giáo viên dễ dàng tác động nhằm hình thành và phát triển phẩm chất năng lực ở mỗi học sinh. Song song với đó, nhà trường tổ chức cho toàn thể giáo viên học tập nghiên cứu các văn bản: Chương trình giáo dục phổ thông 2018, Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT ngày 28 tháng 9 năm 2016, Thông tư số 27/TT- BGDDT ngày 04 tháng 9 năm 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo để giáo viên nắm chắc, hiểu rõ nội dung, mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và Chương trình giáo dục phổ thông 2018 cấp tiểu học. Sau khi tổ chức học tập, nghiên cứu, nhà trường tổ chức lấy ý kiến phản hồi của từng giáo viên về những điểm chưa hiểu rõ, những khó khăn vướng mắc khi thực hiện để cùng trao đổi, tháo gỡ. Một việc hết sức quan trọng là tôi giúp giáo viên hiểu rõ vì sao phải đổi mới phương pháp dạy học. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục thay đổi từ chủ yếu trang bị kiến thức sang hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực nên kéo theo phải thay đổi về phương pháp dạy học mà chỉ có cách dạy học tổ chức hoạt động học mới hình thành và phát triển được năng lực, phẩm chất của học sinh.
  12. 12 Giải pháp 2: Chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt Kế hoạch bài học Kế hoạch bài dạy do giáo viên thiết kế bao gồm các hoạt động của học sinh và giáo viên trong quá trình dạy học một tiết học/bài học/chủ đề (sau đây gọi chung là bài học) nhằm giúp học sinh đạt được yêu cầu cần đạt. Kế hoạch bài dạy được giáo viên thực hiện chủ động, linh hoạt phù hợp với đối tượng học sinh, điều kiện tổ chức dạy học, bảo đảm các yêu cầu cần đạt của chương trình đối với môn học, hoạt động giáo dục để đạt hiệu quả cao nhất; được điều chỉnh, bổ sung thường xuyên cho phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện tổ chức dạy học. Tiến trình tổ chức hoạt động học của học sinh trong mỗi bài học cần được thiết kế thành các hoạt động học theo tiến trình sư phạm của các phương pháp dạy học tích cực như: dạy học giải quyết vấn đề, dạy học tìm tòi nghiên cứu, phương pháp "Bàn tay nặn bột" và các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn Tuy có những điểm khác nhau nhưng tiến trình sư phạm của các phương pháp dạy học tích cực đều tuân theo con đường nhận thức chung. Vì vậy, các hoạt động của học sinh trong mỗi bài học có thể được thiết kế như sau: Khởi động (Tình huống xuất phát), Hình thành kiến thức, Luyện tập, Vận dụng. 1. Khởi động (Tình huống xuất phát) Mục đích của hoạt động này là tạo tâm thế học tập HS, giúp HS ý thức được nhiệm vụ học tập, hứng thú học bài mới. GV sẽ tạo tình huống học tập dựa trên việc huy động kiến thức, kinh nghiệm của bản thân HS có liên quan đến vấn đề xuất hiện trong tài liệu hướng dẫn học; làm bộc lộ "cái" HS đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân HS còn thiếu, giúp HS nhận ra "cái" chưa biết và muốn biết thông qua hoạt động này. Từ đó, giúp HS suy nghĩ và bộc lộ những quan niệm của mình về vấn đề sắp tìm hiểu, học tập. Vì vậy, các câu hỏi/nhiệm vụ trong hoạt động khởi động là những câu hỏi/vấn đề mở, không cần có câu trả lời hoàn chỉnh. Kết thúc hoạt động này, GV không chốt về nội dung kiến thức mà chỉ giúp HS phát biểu được vấn đề để HS chuyển sang các hoạt động tiếp theo nhằm bổ sung những kiến thức, kĩ năng mới, qua đó tiếp tục hoàn thiện câu trả lời hoặc giải quyết được vấn đề.
  13. 13 2. Hình thành kiến thức mới Mục đích của hoạt động này là giúp HS chiếm lĩnh được kiến thức, kỹ năng mới và đưa các kiến thức, kỹ năng mới vào hệ thống kiến thức, kỹ năng của bản thân. GV giúp HS xây dựng được những kiến thức mới thông qua các hoạt động khác nhau như: nghiên cứu tài liệu; tiến hành thí nghiệm, thực hành; hoạt động trải nghiệm sáng tạo Kết thúc hoạt động này, trên cơ sở kết quả hoạt động học của HS thể hiện ở các sản phẩm học tập mà HS hoàn thành, GV cần chốt kiến thức mới để HS chính thức ghi nhận và vận dụng. 3. Luyện tập Mục đích của hoạt động này là giúp HS củng cố, hoàn thiện kiến thức, kỹ năng vừa lĩnh hội được. Trong hoạt động này, HS được yêu cầu áp dụng trực tiếp kiến thức vào giải quyết các câu hỏi/bài tập/tình huống/vấn đề trong học tập. Kết thúc hoạt động này, nếu cần, GV có thể lựa chọn những vấn đề cơ bản về phương pháp, cách thức giải quyết các câu hỏi/bài tập/tình huống/vấn đề để HS ghi nhận và vận dụng, trước hết là vận dụng để hoàn chỉnh câu trả lời/giải quyết vấn đề đặt ra trong "Hoạt động khởi động". 4. Vận dụng Mục đích của hoạt động này là giúp HS vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học để phát hiện và giải quyết các tình huống/vấn đề trong cuộc sống ở gia đình, địa phương. GV cần gợi ý HS về những hoạt động, sự hiện, hiện tượng cần quan sát trong cuộc sống hàng ngày, mô tả yêu cầu về sản phẩm mà HS cần hoàn thành để HS quan tâm thực hiện. Hoạt động này không cần tổ chức ở trên lớp và không đòi hỏi tất cả HS phải tham gia. Tuy nhiên, GV cần quan tâm, động viên để có thể thu hút nhiều HS tham gia một cách tự nguyện; khuyến khích những HS có sản phẩm chia sẻ với các bạn trong lớp. Giải pháp 3: Xây dựng và hướng dẫn giáo viên thực hiện các kỹ thuật tổ chức hoạt động học của học sinh Qua nghiên cứu, thực hiện theo các văn bản chỉ đạo của các cấp, tôi đã xây dựng kỹ thuật tổ chức hoạt động học của học sinh. Sau đó, tôi tham khảo ý
  14. 14 kiến của đội ngũ tổ trưởng và giáo viên cốt cán trong trường đồng thời tham khảo ý kiến của một số đồng nghiệp là cán bộ quản lý có kinh nghiệm và giáo viên giỏi. Tôi đúc kết thành kỹ thuật tổ chức hoạt động học như sau: 1. Các bước tổ chức một hoạt động học Mỗi hoạt động học của HS nói trên phải thể hiện rõ mục đích, nội dung, phương thức và sản phẩm học tập mà HS phải hoàn thành. Phương thức hoạt động của HS thể hiện thông qua kĩ thuật học tích cực được sử dụng. Có nhiều kĩ thuật học tích cực khác nhau, mỗi kĩ thuật có mục tiêu rèn luyện các kĩ năng khác nhau cho HS. Tuy nhiên, dù sử dụng kĩ thuật học tích cực nào thì việc tổ chức mỗi hoạt động học của HS đều phải thực hiện theo các bước sau: a) Chuyển giao nhiệm vụ học tập: nhiệm vụ học tập được giao cho HS phải rõ ràng và phù hợp với khả năng của HS, thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà HS phải hoàn thành khi thực hiện nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích được hứng thú nhận thức của HS; đảm bảo cho tất cả HS tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ. b) Thực hiện nhiệm vụ học tập: HS được khuyến khích hợp tác với nhau khi thực hiện nhiệm vụ học tập; GV cần phát hiện kịp thời những khó khăn của HS và có biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; không để xảy ra tình trạng HS bị "bỏ quên" trong quá trình dạy học. c) Báo cáo kết quả và thảo luận: yêu cầu về hình thức báo cáo phải phù hợp với nội dung học tập và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng; GV cần khuyến khích cho HS trao đổi, thảo luận với nhau về nội dung học tập; xử lí những tình huống sư phạm nảy sinh một cách hợp lí. d) Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: GV tổ chức cho HS trình bày, thảo luận về kết quả thực hiện nhiệm vụ; nhận xét về quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập của HS; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và những ý kiến thảo luận của HS; chính xác hóa các kiến thức mà HS đã học được thông qua hoạt động. 2. Những loại hình hoạt động học của học sinh và ý nghĩa của nó
  15. 15 Khi tổ chức hoạt động học cho học sinh, tuỳ và mỗi hoạt động mà giáo viên có thể chọn một hoặc kết kợp các loại hình hoạt động sau: a) Hoạt động cá nhân là hoạt động yêu cầu HS thực hiện các bài tập/nhiệm vụ một cách độc lập. Loại hoạt động này nhằm tăng cường khả năng làm việc độc lập của HS. Nó diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là với các bài tập/nhiệm vụ có yêu cầu khám phá, sáng tạo hoặc rèn luyện đặc thù. GV cần đặc biệt coi trọng hoạt động cá nhân vì nếu thiếu nó, nhận thức của HS sẽ không đạt tới mức độ sâu sắc và chắc chắn cần thiết, cũng như các kĩ năng sẽ không được rèn luyện một cách tập trung. b) Hoạt động cặp đôi và hoạt động nhóm là những hoạt động nhằm giúp HSphát triển năng lực hợp tác, tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng. Thông thường, hình thức hoạt động cặp đôi được sử dụng trong những trường hợp các bài tập/ nhiệm vụ cần sự chia sẻ, hợp tác trong nhóm nhỏ gồm 2 em. Ví dụ: kể cho nhau nghe, nói với nhau một nội dung nào đó, đổi bài cho nhau để đánh giá chéo ; còn hình thức hoạt động nhóm (từ 3 em trở lên) được sử dụng trong trường hợp tương tự, nhưng nghiêng về sự hợp tác, thảo luận với số lượng thành viên nhiều hơn. c) Hoạt động chung cả lớp là hình thức hoạt động phù hợp với số đông HS. Đây là hình thức nhằm tăng cường tính cộng đồng, giáo dục tinh thần đoàn kết, sự chia sẻ, tinh thần chung sống hài hoà. Hoạt động chung cả lớp thường được vận dụng trong các tình huống sau: nghe GV hướng dẫn chung; nghe GV nhắc nhở, tổng kết, rút kinh nghiệm; HS luyện tập trình bày miệng trước tập thể lớp Khi tổ chức hoạt động chung cả lớp, GV tránh biến giờ học thành giờ nghe thuyết giảng hoặc vấn đáp vì như vậy sẽ làm giảm hiệu quả và sai mục đích của hình thức hoạt động này. d) Hoạt động với cộng đồng là hình thức hoạt động của HS trong mối tương tác với xã hội. Hoạt động với cộng đồng bao gồm các hình thức, từ đơn giản như: nói chuyện với bạn bè, hỏi người thân trong gia đình , đến những hình thức phức tạp hơn như: tham gia bảo vệ môi trường, tìm hiểu các di tích văn hoá, lịch sử ở địa phương
  16. 16 Chú ý: Thông thường, trong một hoạt động học, để phát triển năng lực, phẩm chất ở học sinh, giáo viên thường hướng dẫn học sinh thực hiện hoạt động học theo trình tự sau: Hoạt động cá nhân, Hoạt động cặp đôi (nhóm), Hoạt động chung cả lớp. 3. Vai trò của các thành viên trong hoạt động nhóm Để tránh việc tổ chức hoạt động nhóm mang tính hình thức. Trong khi thảo luận nhóm, cần phân rõ vai trò của cá nhân, nhóm trưởng, GV. Cụ thể là: a) Cá nhân: tự đọc, suy nghĩ, giải quyết nhiệm vụ, có thể hỏi các bạn trong nhóm về những điều mình chưa hiểu; khi các bạn cũng gặp khó khăn như mình thì yêu cầu sự trợ giúp của GV. Mỗi HS cần phải được hướng dẫn cụ thể để biết ghi chép những kết quả học tập của mình vào vở học tập, thể hiện ở câu trả lời cho câu hỏi/lời giải của các bài tập/kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập. b) Nhóm trưởng: thực hiện các nhiệm vụ của cá nhân như những bạn khác; phân công các bạn giúp đỡ nhau; tổ chức cho cả nhóm thảo luận để thực hiện nhiệm vụ học tập; thay mặt nhóm để liên hệ với GV và xin trợ giúp; báo cáo tiến trình học tập nhóm. c) Thư kí của nhóm: thực hiện các nhiệm vụ của cá nhân như các bạn khác; ghi chép lại những nội dung trao đổi hoặc kết quả công việc của nhóm để trao đổi với các nhóm khác hoặc chia sẻ trước cả lớp. 4. Một số hình thức làm việc của học sinh trong hoạt động học Trong quá trình học tập, không phải lúc nào HS cũng hoạt động theo nhóm. HS vẫn làm việc cá nhân, theo cặp trong nhóm. Các hình thức làm việc trong nhóm được thay đổi thường xuyên căn cứ vào yêu cầu của nội dung dạy học và thiết kế hoạt động của GV. Việc lựa chọn hình thức làm việc cá nhân, cặp đôi, nhóm hay cả lớp phụ thuộc vào yêu cầu của các loại hình hoạt động và luyện tập. Tài liệu Hướng dẫn học chỉ là một gợi ý cho việc tổ chức các hình thức hợp tác này, GV cần lưu ý không phải luôn tuân theo một cách máy móc thiết kế có sẵn của tài liệu. Tùy vào đặc điểm chung của HS và ý tưởng dạy học, GV có sự thay đổi,