Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp giáo viên Khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp giáo viên Khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_giup_giao_vien_khoi.docx
BIA.docx
LOAN_TT.pptx
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp giáo viên Khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Giáo dục trẻ em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã hội đều quan tâm, bởi vì “ Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”, để ngày mai thế giới có những chủ nhân tốt, xã hội có những công dân tốt thì ngay từ ngày hôm nay chúng ta phải đào tạo thế hệ trẻ có kiến thức để các em được học lên các cấp học trên dễ dàng. Nhiệm vụ giáo dục học sinh luôn luôn được xã hội quan tâm nhưng quan trọng hơn cả vẫn là nhà trường, đặc biệt là trường Tiểu học. Bởi vì nhà trường nói chung và trường Tiểu học nói riêng là nơi kết tinh trình độ văn minh của xã hội trong công tác giáo dục trẻ em. Đứa trẻ ngày hôm nay và mai sau trở thành những người như thế nào là tuỳ thuộc rất nhiều vào cấp tiểu học các em được học những gì. Trong thời gian này xã hội đang nói rất nhiều về giáo dục, về chất lượng học sinh lên lớp, về những học sinh ngồi nhầm lớp từ khi có cuộc vận động “ hai không” của Bộ trưởng Bộ giáo dục. Những người làm công tác giáo dục như tôi không khỏi suy nghĩ phải làm gì, làm như thế nào để “sản phẩm” của mình phải có chất lượng, những lí do trên đã thôi thúc tôi cần phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể góp phần đưa chất lượng học sinh trong nhà trường đạt hiệu quả tốt. Là giáo viên dạy lớp 1 tôi đặc biệt chú trọng đến khối lớp Một vì lớp Một là lớp rất quan trọng ở tiểu học, nếu các em không đọc thông viết thạo thì các em làm toán cũng rất khó khăn và học các môn học khác cũng rất chậm. Qua thực tế giảng dạy và tôi đã chọn : “Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt.” 1.Thực trạng của vấn đề a. Ưu điểm. - Học sinh lớp một phần lớn các em chăm ngoan và rất chịu khó,có hứng thú học . 1
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt - Giáo viên vận dụng linh hoạt phương pháp dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh.Giáo viên nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ học sinh. - Giáo viên say sưa, nhiệt tình ,tâm huyết với nghề trong công tác giảng dạy. - Giáo viên có kế hoạch giảng dạy cụ thể để giúp đỡ học sinh yếu ,giải quyết những khó khăn. - Giáo viên biết lắng nghe và thu nhận thông tin phản hồi từ học sinh, phụ huynh, - Giữ mối liên hệ tốt giữa nhà trường – gia đình – xã hội. - Được sự quan tâm của ban giám hiệu ,đồng nghiệp trong việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. b. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế. Qua quá trình theo dõi tôi nhận thấy chất lượng dạy môn Tiếng việtlớp đạt hiệu quả chưa cao,có rất nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu mà một số học sinh lớp Một đọc, viết vẫn còn chậm tập trung vào những nguyên nhân sau: - Thiết bị dạy học: Năm học 2020 – 2021 là năm học đầu tiên áp dụng Chương trình giáo dục phổ thông 2018 (GDPT 2018), giáo viên còn khá nhiều lúng túng khi giảng dạy, đặc biệt là làm thế nào để dạy học theo hướng phát huy phẩm chất, năng lực cho học sinh theo định hướng của Chương trình GDPT 2018. Sách giáo khoa được xem như một ngữ liệu, nhằm giúp học sinh đạt chuẩn trong chương trình quy định, cũng theo lẽ đó sách giáo khoa không còn là pháp lệnh như trước đây. Tuy vậy, giáo viên chưa mạnh dạn trong việc thay đổi ngữ liệu, hay sử dụng các tài liệu bổ trợ để tiết học thực sự được triển khai theo hướng mở và sáng tạo; mang lại hiệu quả học tập cho học sinh. Nói cách khác, việc bóc tách ngữ liệu trong chuỗi hệ thống kiến thức của sách giáo khoa đã được Bộ giáo 2
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt dục và đào tạo thẩm định hay việc lựa chọn nội dung thay thế để giảng dạy và học tập ở lớp 1 gặp nhiều khó khăn. - Đối với Giáo viên: Giáo viên còn nhiều bỡ ngỡ trong việc thiết kế một kế hoạch dạy học phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh để nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt. Vận dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh nên chất lượng chưa cao, một số giáo viên chưa nhiệt tình giúp đỡ học sinh. - Đối với Học sinh Có nhiều em chưa biết chữ cái, chưa biết cầm viết và chưa quen với nền nếp học tập. Vốn hiểu biết, vốn từ ngữ và kĩ năng giao tiếp của học sinh lớp 1 còn rất nhiều hạn chế. Từ trường mầm non chuyển sang lớp 1 là một bước ngoặt lớn, chuyển từ môi trường quen được chăm sóc sang môi trường với hoạt động học là chính, trẻ có thể bị “sốc” hoặc mất tập trung, thậm chí sợ hãi nếu bị ép buộc phải ngồi học quá lâu. Một số em còn nhút nhát, chưa tự tin khi nói, khi trao đổi với cô giáo hay tương tác với bạn, một số em còn ham chơi, thiếu tập trung và chưa chủ động trong học tập. Có một số em bị bệnh lý bẩm sinh, học hay quên; lười học; do hoàn cảnh gia đình. - Đối với Phụ huynh học sinh Một số gia đình không quan tâm đến con em mình, phó mặc khoán trắng cho nhà trường. Cha mẹ học sinh chưa nhận thức đầy đủ và đúng đắn về chủ trương, mục tiêu của Chương trình GDPT 2018. Phần lớn không biết cách hướng dẫn con học; 3
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt căng thẳng trong quá trình cùng học với con; một số cha mẹ còn quá nhiều kỳ vọng nên càng cố gắng trang bị cho trẻ thật nhiều kiến thức: Cho trẻ biết đọc, biết viết trước khi vào lớp 1, khiến các em chủ quan và nhàm chán trong học tập. - Chính vì những lý do đó mà ngay từ đầu năm học tôi đã khảo sát trình độ học sinh trong tháng 9 cụ thể như sau: Bảng tổng hợp khảo sát trước khi thực nghiệm Tổng HS: 32 Đầu năm Tỷ lệ % Đọc, viết chuẩn 17 em 53,1 Đọc, viết chậm 9 em 28,1 Đọc, viết chưa được 6 em 18,8 Từ những số liệu về tình hình học sinh , cùng với quá trình đi dự giờ để tìm hiểu rõ nguyên nhân các em lại đọc, viết còn chậm so với yêu cầu chuẩn.Từ đó tôi có những giải pháp cụ thể và tiến hành ngay để làm sao nâng dần chất lượng dạy môn Tiếng việtcho các em học sinh lớp Một. 2. Biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy. * Biện pháp thứ nhất: Dạy phân hóa đối tượng học sinh Mục tiêu: Giúp giáo viên vận dụng linh hoạt phương pháp dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh; giáo viên cần nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ học sinh. Cách thực hiện: a. Phương pháp dạy học theo nhóm đối tượng: - Yêu cầu giáo viên phân loại học sinh trong lớp thành những nhóm đối tượng như sau: Nhóm 1: Gồm những học sinh chậm, học sinh khó khăn 4
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt Nhóm 2: Gồm những học sinh bình thường Nhóm 3: Gồm những học sinh năng khiếu - Giáo viên có thể thay tên nhóm 1,2,3 thành tên khác như nhóm A,B,C Trong quá trình dạy giáo viên vẫn phải lấy chuẩn để làm thước đo nhưng ở các tiết ôn tập, các giờ ôn của buổi chiều giáo viên yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ với 3 mức khác nhau trong cùng một giờ học. Ví dụ: Nhóm 1 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 2 và 3. Các dạng bài đọc và viết về vần đều có thể vận dụng phương pháp này. Chẳng hạn bài 26 vần an,at sách Tiếng việt vì sự bình đẳng các em chỉ cần viết an, at, bàn là, bát chè, mỗi vần, mỗi từ chỉ một dòng, trong khi đó các em ở nhóm 2,3 viết nhiều hơn mỗi loại như trên từ 2 đến 3 dòng. Các em ở nhóm 1 chỉ cần viết theo yêu cầu chuẩn. - Trong các giờ ra chơi cho những em học sinh chậm, học sinh khó khăn ở lại phòng học, giáo viên tiếp tục kèm cho các em đọc, viết nội dung nào các em còn gặp khó khăn. b. Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh, vật thật .cho học sinh học chậm. - Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khả năng tư duy trừu tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mô hình vật thật, tranh ảnh, do vậy trong các giờ học việc yêu cầu giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là không thể thiếu kể cả đồ dùng do giáo viên tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện truyển tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ không sợ học mà chỉ sợ những tiết học 5
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy học có tác dụng rất lớn trong quá trình dạy môn Tiếng việtcho học sinh, nhất là các em học sinh học chậm. Ví dụ: Ở những bài học về vần. Chẳng hạn như Bài 83 ưu,iu trang 178 Sách giáo khoa Tiếng việt1 Tập 1: Dùng tranh vẽ ( hoặc vật thật) trái lựu; Tranh cái rìu để học sinh quan sát và tìm ra từ khoá sau khi các em đã nhận diện vần iu và ưu ở phần đầu tiết học. Từ những hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và nhớ chính xác hơn các vần và các từ được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật thật đến vần của bài học. Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng việtgiúp học sinh nhớ vần và từ tốt hơn. - Ngoài ra dùng tranh, ảnh có vai trò rất lớn trong phần luyện nói ở các tiết tập đọc môn Tiếng việt lớp 1 – học kì II. Ví dụ: Bài vần uông ,uôc – Trang 164 Sách giáo khoa Tiếng việt1 tập I– Phần tạo tiếng mới: Tìm tiếng ngoài bài: Có vần uông, uôc. Giáo viên treo tranh một người cầm vỉ thuốc uống – Giáo viên hỏi nội dung bức tranh, sau đó cho các em nói câu có vần uôc, động viên các em học chậm nói trước, nhìn vào tranh tự các em có thể nói được như: Mẹ (cô, chị, dì) đang uống thuốc. Dùng tranh, ảnh trong các phần này tôi nghĩ rằng có tác dụng rất lớn đối với các em học chậm, các em vừa nói được câu có vần cần tìm và còn hiểu được nghĩa của câu đó. Tuy nhiên các em học sinh khá, giỏi nói các câu khác cũng có vần uôc như luộc rau, buộc tóc mà không cần dựa vào tranh. Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng khéo léo tranh, ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh khá giỏi lại vừa tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên cho học sinh học chậm. 6
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt c. Người giáo viên cần có lòng nhiệt tình, luôn quan tâm giúp đỡ học sinh. Tôi và giáo viên dạy khối Một hiểu rằng các em học sinh lớp Một mới từ mẫu giáo chuyển lên nên việc tiếp thu kiến thức thông qua hình thức: Học mà chơi, chơi mà học, giáo viên phải nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em luôn tạo không khí thoải mái, vui vẻ trong giờ học, một lời nhận xét động viên các em giúp các em thấy tự tin và phấn khởi, sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần thiết, tránh quát mắng các em khi các em làm sai hay chưa làm được. Đặc biệt không được ngồi một chỗ bảo các em đọc đi, viết đi mà giáo viên phải đi xuống bên học sinh xem em nào đã làm được còn em nào làm chưa được nhắc nhở các em, chỉ cụ thể cho các em nhất là với các em học chậm cần nhắc lại hay cầm tay các em để các em viết cho đúng. Làm sao để mỗi ngày các em đến trường là một ngày vui. Giáo viên phải gần gũi với học sinh thì mới hiểu được về học sinh của mình, để hình ảnh ân cần của cô luôn là hình ảnh đẹp trong ánh mắt của các em, bản thân các em cũng thấy cô giáo như người thân trong gia đình sẵn sàng kể cho cô nghe những niềm vui hoặc những khó khăn của mình trong học tập hay trong sinh hoạt hàng ngày mà cần cô giúp đỡ. - Ví dụ: Em Nguyễn Trung Trường lớp 1 em viết rất hay sai, không đúng cỡ chữ, một số chữ hay lẫn lộn trong 3 tháng đầu năm học. Giáo viên luôn đến tận nơi khi cầm tay, khi chỉ hàng cho em cùng với lời khen dù chỉ là tiến bộ nhỏ nhất, tôi theo dõi hàng tháng để xem em đó tiến bộ như thế nào, quả thật đến nay em Trường đã tiến bộ rõ rệt, chữ viết đã đúng, rõ ràng, thẳng hàng. * Tóm lại: Qua việc theo dõi quá trình dạy học, tôi nhận thấy nếu người giáo viên biết lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp với từng trình độ học sinh của một lớp cùng với lòng nhiệt tình, quan tâm giúp đỡ học sinh học chậm thì chất lượng học sinh ngày một nâng lên. 7
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt * Biện pháp thứ hai: Dạy những đối tượng học sinh yếu, kém, tiếp thu chậm Mục tiêu: Người giáo viên phải làm gì để học sinh nhận thức chậm, hay quên; học sinh có hoàn cảnh gia đình học tốt hơn. Cách thực hiện: Có lẽ nguyên nhân này là nguyên nhân lớn làm giảm chất lượng học sinh ở lớp Một. Là giáo viên, tôi thực sự băn khoăn và trăn trở bởi số học sinh này không phải chỉ có 1 hay 2 em, nên tôi nghĩ cần có kế hoạch cụ thể để giúp những học sinh này như thế nào cho đạt kết quả tốt, không phải trong một tháng mà trong cả một năm học. a. Đối với học sinh nhận thức chậm, hay quên. - Yêu cầu giáo viên chủ nhiệm phải phân loại và nắm được số lượng dạng học sinh này, giáo viên cần có một phương pháp dạy và dạy một lượng kiến thức phù hợp cho các em. Tuy nhiên với học sinh cả lớp giáo viên vẫn lấy chuẩn để làm mục tiêu phấn đấu, còn những em này nếu dạy chung theo chuẩn của chương trình đề ra thì các em không thể theo kịp, vì thế tôi yêu cầu giáo viên trước hết sắp xếp chỗ ngồi cho các em phù hợp và có tác dụng thúc đẩy. Ví dụ: Cho các em ngồi gần các bạn học tốt để các em được sự giúp đỡ từ bạn, được học tập từ bạn như các em tập đọc theo bạn, nhắc lại câu của bạn nói, được các bạn nhắc nhở luôn với hình thức này là điều kiện rất tốt cho các em hoạt động nhóm đôi, tránh cho các em cùng học chậm ngồi với nhau và ngồi cuối cùng của lớp, cần tạo điều kiện cho các em học tốt để các em biết phát huy những ưu điểm của bạn - Dạy các em lượng kiến thức phù hợp như: về viết chỉ yêu cầu các em viết một số dòng nếu như những học sinh bình thường có thể viết nhiều dòng trở lên. 8
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt b. Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình như mồ côi, cha mẹ bất hoà, cuộc sống khó khăn. - Nguyên nhân này cũng là yếu tố làm giảm chất lượng học sinh, trong quá trình tìm hiểu thực tế cho thấy nhiều em đến lớp không viết bài, ngồi ngơ ngác có khi còn ngủ gật, không chú ý cô giảng bài Đối tượng học sinh này cần được quan tâm nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy muốn các học sinh này học tốt giáo viên phải nắm được hoàn cảnh thực tế của các em từ đó mới có biện pháp cụ thể để dạy các em. - Giáo viên phải có biện pháp dạy và tạo điều kiện tốt cho các em học tập, Ban giám hiệu trường chủ động tham mưu với hội phụ huynh học sinh, các cơ quan đóng trên địa bàn giúp đỡ về vật chất như tập, đồ dùng, quần áo. Ví dụ: Lớp 1 có em Nguyễn Văn Đạt cha mẹ em ly hôn nhau, sống với bà nội, em hay nghỉ học, đến lớp ngồi một mình không tham gia hoạt động cùng với các bạn, em học kém, hay quên tập vở. Tôi luôn gần gũi, động viên em, khi thấy em nghỉ học không lí do cần đến nhà gặp gia đình của em, giúp em cùng chơi và hoà nhập với các bạn. Đồng thời tôi cho em để một số sách vở ở lớp để em khỏi quên như tập hát, tự nhiên xã hội, vở bài tập các loại. Một vài lần kiểm tra, tôi thấy em Đạt cũng đã tiến bộ nhiều, em vui hơn khi tham gia chơi cùng bạn bè và không còn ngồi buồn nữa. *Tóm lại: Đối với học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, giáo viên cần quan tâm, giúp đỡ, động viên các em giúp các em tự tin trong học tập và hoà nhập với cộng đồng, cần giúp đỡ các em cả vật chất và tinh thần * Biện pháp thứ ba: Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em mình không khoán trắng cho nhà trường và thấy được sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình là rất cần thiết. 9
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt Từ thực tế cho thấy nhiều cha mẹ học sinh cho con đến trường là xong nhiệm vụ còn trách nhiệm dạy, giáo dục con mình là phần thầy cô giáo, có những em bị bệnh nhưng cha mẹ không hề biết vẫn cho con đi học có khi các em đi học cả buổi mà vẫn chưa ăn gì, ngay cả khi các em bị ốm mà phụ huynh cũng không quan tâm tới các em. Với các trường hợp này đòi hỏi giáo viên cần phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh, trao đổi với phụ huynh để họ hiểu rằng kết quả học tập của các em có tốt là phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa gia đình và nhà trường. Yêu cầu quan tâm tối thiểu như cha mẹ các em cần kiểm tra bài vở của các em sau mỗi buổi học ở trường xem con mình đã học những môn nào, các em có ghi chép đủ không, giúp các em soạn sách vở trong thời gian đầu và theo dõi kiểm tra nhắc nhở các em việc soạn sách vở khi cho các em đã tự làm, hướng dẫn các em đọc bài nhiều lần ở nhà, chuẩn bị cho bài mới. Còn giáo viên ngoài họp phụ huynh theo kế hoạch chỉ đạo định kì chung 3 lần/ năm học, phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh bằng phiếu liên lạc hay trực tiếp trao đổi với phụ huynh khi cần thiết. Bên cạnh đó giáo viên cần phối hợp với hội phụ huynh của lớp nhờ hội trưởng của lớp giúp đỡ. Ví dụ: Lớp 1 của tôi có 4 em thường xuyên quên mang tập vở, không học bài ở nhà, lần họp phụ huynh đầu tiên cha mẹ của các em không đi. Tôi liên lạc trực tiếp với phụ huynh, đến tận nhà thông báo tình hình học tập của các em và nhờ phụ huynh chung tay với nhà trường, bản thân tôi gặp trực tiếp hai lần trao đổi với bố mẹ của các em đó để phụ huynh hiểu được vai trò của gia đình trong việc dạy các em là rất quan trọng, mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình không thể tách rời nhau. Thời gian sau cha mẹ 4 em đó đã quan tâm tới các em hơn và thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm, kì họp phụ huynh lần hai cha mẹ các em đi đầy đủ. Sau một thời gian, 4 học sinh đó có tiến bộ rõ rệt, cho đến nay cả 4 em đều học khá tốt. * Biện pháp thứ bốn: Xây dựng kế hoạch dạy học 10
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt Mục tiêu: Giáo viên cần có kĩ năng xây dựng kế hoạch dạy học Tiếng việt nhằm phát triển phẩm chất, năng lực học sinh một cách phù hợp, mang lại hiệu quả giáo dục cao Cách thực hiện: Giáo viên cần nắm vững yêu cầu của chương trình, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện thực tế của lớp học để xây dựng kế hoạch bài học cho phù hợp (về thời lượng, tiến độ thực hiện, xác định phẩm chất, năng lực cần đạt, phân hóa đối tượng, dạy học phát triển ). Giáo viên xác định cụ thể những phẩm chất, năng lực chung và năng lực đặc thù nào cần phát triển trong mỗi bài học thực tế. Ví dụ: Trong bài tuần 31 trang 121 sgk Tiếng việtbộ vì sự bình đẳng, giáo viên chỉ rõ trong mục tiêu của bài như sau: - Rèn đức tính trung thực qua hoạt động biết nhận lỗi của bạn Tộ , (phẩm chất) - Biết tôn trọng người lớn, cách ứng xử phù hợp với mọi người xung quanh qua hoạt động mở rộng (phẩm chất) - Tự tin, trách nhiệm, biết giúp đỡ bạn khi làm việc nhóm (phẩm chất) - Phát triển năng lực ngôn ngữ qua hoạt động luyện nói, nói câu chứa âm, vần vừa học (năng lực) - Năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề thông qua việc giải quyết các nhiệm vụ học tập trong nhóm (năng lực) Tùy theo đặc điểm đối tượng học sinh của từng lớp, giáo viên cần có kế hoạch dạy học phân hóa, thực hiện theo chuyên đề Phòng GD&ĐT đã triển khai: Đánh giá, phân loại về năng lực học tập của học sinh Xây dựng kế hoạch, nội dung và lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng 11
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt hoặc từng nhóm đối tượng Tổ chức triển khai thực hiện Kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh, hoàn thiện kế hoạch. Do đó, khi xây dựng hệ thống câu hỏi, giáo viên cần thiết kế câu hỏi theo từng mức độ và hỏi từ dễ đến khó từ đơn giản đến phức tạp. Giáo viên yêu cầu học sinh tìm tiếng chứa âm, vần mới học, nâng cao hơn nữa, giáo viên yêu cầu học sinh tự phát hiện từ, tiếng khó đọc; với hình thức như vậy không những giáo viên đã giao nhiệm vụ phân hóa đối tượng học sinh mà còn giúp học sinh phát huy được năng lực tự học và tự giải quyết vấn đề. Chương trình có tính mở, vì thế giáo viên có thể chủ động, linh hoạt điều chỉnh nội dung dạy học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Để có thể thực hiện đúng với tinh thần như vậy, giáo viên phải là người nắm chắc nội dung bài học, xây dựng kế hoạch dạy học một cách khoa học, đặc biệt là phải phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. Ví dụ: giáo viên chuẩn bị các tranh ảnh minh họa cho từ cần giải nghĩa, clip về những kiểu chào trong các môn thể thao, bài hát các nội dung liên quan tới chủ đề bài học. Xác định dạng bài, để từ đó xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp, hiệu quả. Ví dụ: Đối với dạng bài dạy âm - vần (tiết 2): Ở phần khởi động học sinh được nói và nghe liên quan đến chủ đề tuần học, đến âm vần đã học ở tiết 1. Trong tiết dạy minh họa vần “a – c” để khởi động giáo viên đã sử dụng bài hát “Con cào cào” có liên quan đến chủ đề thể thao và khéo léo lồng ghép cho học sinh tìm thêm những từ, tiếng nói về môn thể thao có chứa âm, vần vừa học. Tổ chức thi đọc, phát huy tính tích cực và năng khiếu đọc của học sinh. Ở hoạt động này giáo viên cho học sinh đọc trong nhóm để giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp, làm việc nhóm. * Biện pháp thứ năm: Tổ chức các hoạt động dạy học hiệu quả 12
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt Mục tiêu: Để nâng cao hiệu quả phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trong môn Tiếng việt lớp 1, giáo viên cần coi trọng tổ chức các hoạt động học tập trên lớp Cách thực hiện: Với đối tượng là học sinh lớp 1, các em vừa chuyển từ hoạt động vui chơi là chính sang hoạt động học tập làm chủ đạo, thì việc xây dựng nền nếp học tập, tổ chức lớp học là một việc làm quan trọng, góp phần mang lại hiệu quả học tập. Tổ chức các hoạt động học tập là hoạt động quan trọng, không thể thiếu trong dạy - học trên lớp. Giáo viên hướng dẫn các kĩ năng học tập của học sinh: kĩ năng làm việc cá nhân, cặp đôi, nhóm, với tài liệu học tập. Giáo viên lưu ý khi giao nhiệm vụ, học sinh phải biết rõ việc mình làm, thực hiện hoạt động gì? Cách làm như thế nào? Kết quả hay sản phẩm là gì? Giáo viên nhất thiết phải dành thời gian cho học sinh làm việc cá nhân rồi mới chuyển sang cặp đôi/ nhóm. Tất cả học sinh phải cùng nhau để làm ra sản phẩm của nhóm. Từ đó phát triển được năng lực giao tiếp, hợp tác, năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề, cũng như những phẩm chất của người học sinh như đoàn kết, yêu thương, trung thực, kỉ luật. Về sĩ số học sinh đông: để tổ chức lớp học luôn ổn định, nền nếp, giáo viên áp dụng các phương pháp, hình thức dạy học tích cực nhằm tạo hứng thú và tập trung học tập. Cụ thể như: phương pháp vấn đáp, phương pháp trò chơi, hình thức dạy học nhóm. Ví dụ: Trong tiết dạy trên, giáo viên đã liên tục thay đổi hình thức học tập (cá nhân- cặp đôi- cả lớp); áp dụng nhiều phương pháp, hình thức dạy học tích cực (động não- vấn đáp- trò chơi, ); ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo hứng thú học tập, giúp học sinh có động cơ học tập tích cực. 13
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt * Biện pháp thứ sáu: Đổi mới cách đánh giá học sinh Tiểu học Mục tiêu: Giúp giáo viên đánh giá học sinh theo chuẩn, bám sát sự phát triển của học sinh, đề cao sự tiến bộ của học sinh Cách thực hiện: Đánh giá học sinh tiểu học là quá trình thu thập, xử lý thông tin thông qua các hoạt động quan sát, theo dõi trao đổi, kiểm tra, nhận xét quá trình học tập, rèn luyện của học sinh; tư vấn hướng dẫn, động viên học sinh; diễn giải thông tin định tính hoặc định lượng về kết quả học tập, rèn luyện, sự hình thành và phát triển một số phẩm chất, năng lực của học sinh tiểu học. Đặc biệt, trẻ lớp 1 mới làm quen với trường tiểu học, nắm bắt tâm lý lứa tuổi các em thích được khen; được thầy cô và các bạn tin tưởng các em sẽ hứng thú trong các hoạt động học tập. Vì vậy, từ đầu năm học, giáo viên cần thực hiện nghiêm túc việc đánh giá học sinh thường xuyên bằng lời nói để động viên, khuyến khích các em. Do đã được tìm hiểu về Chương trình giáo dục tổng thể 2018 và được tập huấn về chương trình sách giáo khoa mới nên mỗi giáo viên trong từng tiết học nói chung và tiết Tiếng việtnói riêng đã chú ý nhận xét, động viên học sinh qua các năng lực cốt lõi và phẩm chất cần đạt của môn học. 14
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt Ở mỗi bài học, khi cần thiết có đưa thêm các kí hiệu bằng hình vẽ, nhằm gợi ý, hướng dẫn HS suy nghĩ giải quyết vấn đề hoặc trao đổi thảo luận với các bạn, các thầy cô giáo. Cuối mỗi bài học, thông qua một tình huống gần gũi với thực tế đời sống, HS làm quen với việc vận dụng tổng hợp kiến thức đã học để giải quyết vấn đề. Ngoài ra, HS còn được tạo cơ hội tham gia trả lời các câu hỏi và ứng đáp với các tình huống thách thức hơn nhằm phát triển tư duy, khả năng sáng tạo và đáp ứng nhu cầu dạy học phân hoá. * Biện pháp thứ bẩy: Sử dụng tranh ảnh và dụng cụ học tập Mục tiêu: Khắc sâu kiến thức thông qua quan sát, dạy học bằng hình ảnh Cách tiến hành: Ở lứa tuổi lớp 1 để các em nắm kiến thức và tiếp thu được dễ dàng điều quan trọng nhất phải kể đến cách áp dụng trò chơi vào tiết học.Tránh cho các em có sự nhàm chán, căng thẳng, bằng cách tạo cho cả lớp có trò chơi tôi sẽ lồng ghép các âm vần, khó vào trong bài học, từ đó các em sẽ có cái nhìn trực quang hơn. Những trò chơi như thế này rất dễ thực hiện bằng cách sử dụng các kẹp tài liệu, các bút viết hay chỉ cần một tấm bìa cứng. Dùng ngôn ngữ, thông tin cần học có thể đặt vào các hình ảnh trong đó, Học sinh bốc thăm và đọc rồi trả lời câu hỏi. Giải pháp này giúp học sinh khắc sâu trong trí nhớ hơn và hứng thú học hơn Phải chú ý theo dõi sự hướng dẫn của giáo viên, chăm chỉ tự tin trong học tập, phải hoà đồng cùng bạn bè, điều gì không hiểu mạnh dạn hỏi thầy cô hoặc bạn bè. Luôn luôn có ý thức luyện phát âm đúng, đọc chuẩn rõ ràng lưu loát rồi diễn cảm. Chịu khó tìm đọc các loại truyện tranh trong sáng lành mạnh trong sáng, báo Măng non, báo Nhi Đồng cho học sinh xem 3. Kết quả đạt được Qua các biện pháp mà tôi thực hiện , tôi thấy các em học tập có hiệu quả rõ rệt ,chất lượng học tập của các em nâng dần.Cụ thể đầu năm học các em trong 15
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt lớp như :Nguyễn Trung Trường,Nguyễn Ngọc Đạt,Nguyễn Văn Vinh, Tính đến thời điểm hiện tại các em đã đọc lưu loát,viết đúng li,chữ sạch đẹp Về hiện tại nhìn chung các em có sự tiến bộ rõ rệt hơn về cách học và chơi. Phát huy tốt trong việc rèn luyện kĩ năng phát âm chuẩn cho học sinh, góp phần hoàn thiện chuẩn Tiếng việtcho các em lớp Một. Sau 1 năm thực hiện cũng đã phát huy được hiệu quả mà tôi có thể so sánh đây: Tổng HS: 32 Đầu năm Cuối HKI Cuối HKII Đọc, viết chuẩn 17 28 32 Đọc, viết chậm 9 5 1 Đọc, viết chưa được 6 2 0 4. Kết luận Nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo con người cho ngày hôm nay và cho mai sau là làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại có tư duy sáng tạo và thực hành giỏi, muốn thực hiện được yêu cầu này đòi hỏi người giáo viên trong nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng phải chú trọng đặc biệt ngay ở khối lớp Một bởi vì lớp Một là lớp quan trọng nhất ở khối tiểu học, hết lớp Một các em phải đọc, viết thành thạo thì các em mới làm tính nhanh và học lên lớp trên có chất lượng. Chất lượng dạy và học chính là thước đo giá trị của nhà trường, để mục đích cuối cùng tạo một nguồn nhân lực bao gồm những con người có đức có tài, ham học hỏi, thông minh sáng tạo, được chuẩn bị tốt về văn hoá. Để hoàn thành nhiệm vụ này người giáo viên phải tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi và có biện pháp cụ thể trong quá trình chỉ đạo, giúp đỡ giáo viên cùng tìm ra giải pháp hợp lí, vận dụng các phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung và môn Tiếng việt lớp Một nói riêng, tạo tiền đề tốt cho các em học lên các lớp trên. 16
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt Sau khi áp dụng các giải pháp tôi thấy các em yêu thích môn học hơn. Học sinh phát huy được năng lực học tập, tự học và hợp tác với bạn, biết vận dụng kiến thức đã học vào trong cuộc sống hằng ngày. Trong thời gian tới, bản thân tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu và tìm ra các giải pháp khác để giúp học sinh chưa đạt chuẩn, kiến thức môn Tiếng Việt. Nhằm thực hiện đúng nội dung tinh thần của cuộc vận động “ Hai không” mà đặc biệt là nội dung “ Không để học sinh ngồi nhầm lớp”, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục 5. Kiến nghị, đề xuất. * Đối với tổ/ nhóm chuyên môn: - Cần thường xuyên nghiên cứu các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học. * Đối với nhà trường. - Cần tăng cường tổ chức chuyên đề riêng cho khối 1 để giáo viên trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau. - Trên đây là những biện pháp mà tôi đã áp dụng nghiên cứu tại lớp 1C năm học 2020 -2021 .Tôi nhận thấy học sinh của tôi đọc đúng, đọc lưu loát,phát huy được phẩm chất ,năng lực của học sinh. Biện pháp còn nhiều thiếu sót , rất mong được sự góp ý của các thầy, cô để biện pháp hoàn thiện hơn. Đại Lai, ngày 02 tháng 11 năm 2020 GIÁO VIÊN Chu Thị Loan 17
- Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối một nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng việt 18