Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học

doc 26 trang Ngọc Huệ 24/12/2024 760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_song_cho_hoc_sinh_tieu_hoc.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học

  1. 1 MỤC LỤC Nội dung Trang Phần 1. MỞ ĐẦU 3 1. Mục đích của sáng kiến. 3 2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của Sáng kiến 4 3. Đóng góp của Sáng kiến để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. 4 Phần 2: NỘI DUNG 5 Chương 1: Thực trạng vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh 5 Chương 2: Những biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh 8 1. Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh 8 2. Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học và tài 9 liệu giáo dục kĩ năng sống 3. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động 13 ngoài giờ lên lớp 4. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động của các 15 Câu lạc bộ. 5. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động nhân đạo 16 6. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động nhân đạo 18 7. . Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua trải nghiệm các 18 hội thi, cuộc thi 8. Động viên, khen thưởng 20 9. Tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các kĩ năng sống 20 cơ bản Chương 3: Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai của Sáng kiến 21 Phần 3: KẾT LUẬN 22 1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của Sáng kiến. 22 2. Hiệu quả thiết thực của Sáng kiến nếu được triển khai áp dụng trong 23 ngành 3. Kiến nghị với các cấp quản lý. 24 Phần 4: PHỤ LỤC 26
  2. 2 QUY ƯỚC VIẾT TẮT - HĐTNST - Hoạt động trải nghiệm sáng tạo - HĐNKNGLL - Hoạt động ngoại khoá ngoài giờ lên lớp - GD&ĐT – Giáo dục và đào tạo - XHCN – Xã hội chủ nghĩa - CBGVNV – Cán bộ giáo viên nhân viên - PHHS – Phụ huynh học sinh - CSVC – Cơ sở vật chất - TH&THCS: Tiểu học và Trung học cơ sở - GV: Giáo viên - HS: Học sinh
  3. 3 PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Mục đích của sáng kiến Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại Kĩ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết mà chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Nhiều nghiên cứu đã cho phép đi đến kết luận là trong các yếu tố quyết định sự thành công của con người, kĩ năng sống đóng góp đến khoảng 85%. Theo UNESCO ba thành tố hợp thành năng lực của con người là: kiến thức, kĩ năng và thái độ. Hai yếu tố sau thuộc về kĩ năng sống, có vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách, bản lĩnh, tính chuyên nghiệp Thành công chỉ thực sự đến với những người biết thích nghi để làm chủ hoàn cảnh và có khả năng chinh phục hoàn cảnh. Vì vậy, kĩ năng sống sẽ là hành trang không thể thiếu. Biết sống, làm việc và thành đạt là ước mơ không quá xa vời, là khát khao chính đáng của những ai biết trang bị cho mình những kĩ năng sống cần thiết và hữu ích. kĩ năng sống tốt thúc đẩy thay đổi cách nhìn nhận bản thân và thế giới, tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và động lực cho bản thân, tự mình quyết định số phận của mình. kĩ năng sống giúp giải phóng và vận dụng năng lực tiềm tàng trong mỗi con người để hoàn thiện bản thân, tránh suy nghĩ theo lối mòn và hành động theo thói quen trên hành trình biến ước mơ thành hiện thực. Quá trình hội nhập với thế giới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngoài kiến thức chuyên môn, yêu cầu về các kĩ năng sống ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu kĩ năng sống con người dễ hành động tiêu cực, nông nổi. Giáo dục cần trang bị cho người học những kĩ năng thiết yếu như ý thức về bản thân, làm chủ bản thân, đồng cảm, tôn trọng người khác, biết cách hợp tác và giải quyết hợp lý các mâu thuẫn, xung đột. Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết
  4. 4 các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường.Việc giáo dục kỹ năng sống giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông, đáp ứng luận điểm then chốt của lí luận dạy học hiện đại; “Dạy học hướng vào người học” và “ Học đi đôi với hành”. Hoạt động này giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học đường vào thực tế cuộc sống, từ đó hình thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân. Hoạt động trải nghiệm là một trong những phương pháp dạy học giúp phát triển năng lực cho người học rõ ràng và toàn diện: Rèn luyện và phát triển các năng lực tự hoàn thiện, năng lực tự thích nghi, năng lực tự giao tiếp, ứng xử, năng lực hoạt động chính trị , xã hội, quản lí tổ chức. Hoạt động trải nghiệm là một triết lí về dạy học tích cực, đem lại nhiều lợi ích trong việc nâng cao sự hiểu biết về văn hóa, kiến thức, kỹ năng sống được hình thành từ trải nghiệm của người học có giá trị và ý nghĩa phát triển trí tuệ cho học sinh. 2. Tính mới của sáng kiến - Việc giáo dục kĩ năng sống mang tính thời sự, đang được các nhà trường tổ chức thực hiện thông qua các hình thức khác nhau. - Việc giáo dục kĩ năng sống phù hợp với mục tiêu giáo dục của chương trình GDPT 2018, phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh. - Các biện pháp giáo dục kĩ năng sống thông qua các hoạt động trải nghiệm mà tôi đưa ra rất mới đối với trường TH&THCS Minh Tân. Đây là bước khởi đầu cho giáo viên và học sinh tiếp cận dần với chương trình giáo dục mới. 3. Đóng góp của sáng kiến Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nhằm kích thích học sinh tham gia một cách tích cực chủ động vào các quá trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc thay đổi hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn diện; giúp học sinh có thể sống an toàn, khỏe mạnh và tích cực chủ động trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là giáo dục cho
  5. 5 các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. PHẦN 2: NỘI DUNG CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG VIỆC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH 1. Thuận lợi Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa phương, Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng đã có kế hoạch cho từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là định hướng giúp giáo viên thực hiện dạy các kĩ năng cho học sinh như: Rèn luyện kĩ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kĩ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. Đảng ủy và chính quyền địa phương rất quan tâm đến công tác giáo dục. Nhân dân địa phương cần cù lao động, dân trí ngày càng được nâng cao đã tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thu hút được sự tham gia tích cực của các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể xã hội. Trường TH&THCS Minh Tân có đội ngũ CB, GV, NV đảm bảo đủ về số lượng, đa số GV trẻ nhiệt tình và có lòng yêu nghề mến trẻ. Đội ngũ GV đồng tình hưởng ứng cuộc vận động của ngành và các nội dung mà đơn vị đã xây dựng. Cơ sở vật chất của nhà trường khang trang, thuận lợi cho việc giảng daỵ và tổ chức các hoạt động tập thể.
  6. 6 Các bậc phụ huynh cũng luôn quan tâm, tạo điều kiện cùng giáo viên tham gia các hoạt động của lớp. Chính vì thế mà tôi luôn cố gắng hết mình trong việc chỉ đạo giáo viên giáo dục, rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em luôn mạnh dạn, tự tin, có niềm tin vào cuộc sống, tin vào tương lai giúp các em phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với hiện tại. 2. Khó khăn a. Đối với giáo viên Trong thực tế hiện nay, việc nhận thức tầm quan trọng và cần thiết của rèn kĩ năng sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Qua dùng phiếu thăm dò, khảo sát thực tế cho thấy một số giáo viên lúng túng cả về nội dung, biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh. Nhận thức của nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ về rèn kĩ năng sống cho học sinh là rèn những kĩ năng gì; vì nhận thức chưa đầy đủ, chưa rõ nên không thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu để rèn kĩ năng sống cho học sinh. Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên chưa chịu khó tìm tòi các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động này nên làm mất sự hứng thú của học sinh. Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học, giáo viên chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ theo từng khối lớp những kĩ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch, định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo viên trẻ tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó
  7. 7 trong công tác bồi dưỡng do tuổi nghề còn non nên giáo viên mới thường không an tâm công tác. b. Đối với học sinh - Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động. - Học sinh chỉ có học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gổ lẫn nhau. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ, - Kỹ năng giao tiếp hạn chế, hay nói tục, chửi bậy. - Một số em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô, bạn bè. Kĩ năng làm việc độc lập, thảo luận, chia sẻ với các bạn trong nhóm còn lung túng. Nhiều em chưa linh hoạt trong giao tiếp, trong học tập. Kĩ năng trình bày bài còn mang tính khuôn mẫu chưa biết tự tư duy, tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức của bài học. c. Đối với phụ huynh học sinh Về phía cha mẹ học sinh luôn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là một số phụ huynh trong lớp thì quá nuông chiều con cái khiến trẻ có thói quen ỉ lại, không có kĩ năng tự phục vụ bản thân, một số thì đi làm ăn xa để con ở nhà với anh, chị hoặc ông bà, một số phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ, chỉ bảo con em trong các hoạt động cần thiết Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn nêu trên, tôi đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục.
  8. 8 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH Kĩ năng sống được giáo dục ở nhà và ở trường, giáo dục trong các môn học. Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ, từng hành vi cá nhân đơn giản nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách của mỗi con người. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho hoc sinh tiểu học là một việc làm cần thiết hơn bao giờ hết. Để có được hiệu quả nhất định thì chúng ta phải đề ra được những biện pháp cụ thể, đem lại hiệu quả. Trong quá trình chỉ đạo giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh tôi đã áp dụng một số biện pháp sau: 1. Biện pháp 1. Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh Đầu tiên, tôi chỉ đạo giáo viên sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, nên sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ, ý nguyện, ước nguyện trong tương lai cũng như mong muốn của giáo viên với các em. Đây là hoạt động giúp thầy trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Tiếp theo trong tuần đầu, nên cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích Và tiếp tục qua những tuần học sau, cần chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp. 2. Biện pháp 2. Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học và tài liệu giáo dục kĩ năng sống
  9. 9 Chương trình giáo dục hiện hành còn nặng về lí thuyết, xem nhẹ thực hành. Trong thực tế giảng dạy, đa số giáo viên mới chỉ quan tâm đến việc thực hiện dạy đúng chương trình, đảm bảo mục tiêu tiết học; sau bài học, học sinh nắm được kiến thức gì, chưa quan tâm đến việc sau tiết học này học sinh có thể vận dụng được điều gì vào thực tế cuộc sống. Chính vì vậy, muốn giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua tiết học chính khóa thì giáo viên phải nghiên cứu kĩ chương trình, mục tiêu của từng tiết học; nhất là mục tiêu về kĩ năng cần đạt của học sinh trong tiết học đó, sau đó suy nghĩ xem có thể vận dụng, lồng ghép các kiến thức thực tế nào vào nội dung tiết học để dạy cho các em. Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả tôi chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt việc dạy kĩ năng sống thông qua các môn học học, nhất là các môn như: Thực hành kĩ năng sống; Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học; An toàn giao thông để giờ học các em được làm để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực. Ở môn thực hành kĩ năng sống cần hướng dẫn cho các em các kĩ năng cơ bản và cần thiết như: Cách thể hiện cảm xúc; Cách vượt qua những khó khăn trong cuộc sống; Cách xử lí các tình huống; Hay là cách tránh sét khi gặp trời mưa dông; cách giúp đỡ người khác khi bi đuối nước. Rồi đến những kĩ năng tưởng chừng đơn giản như gấp quần áo, chuẩn bị đồ khi đi tham quan du lịch. Từ những bài học này các em sẽ tự trang bị cho mình những kĩ năng cơ bản để có thể tự giải quyết những khó khăn khi gặp phải. Để đạt được mục tiêu đó, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh không thể hình thành chỉ qua việc ghe giảng và tự học tài liệu mà phải thông qua các hoạt động tương tác với người khác. Đó chính là các hoạt động trải nghiệm. Thông qua các hoạt động trải nghiệm, nhiều kĩ năng sống được hình thành; trong quá trình học sinh tương tác với bạn cùng học và những người xung quanh; qua hoạt động học tập hoặc các hoạt động xã hội trong nhà trường. Trong khi tham gia các hoạt động trải nghiệm, học sinh có dịp thể hiện ý tưởng của mình, xem xét ý tưởng của người khác, được đánh giá và xem xét lại những kinh nghiệm sống của mình trước đây theo một cách nhìn
  10. 10 nhận khác. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong nhà trường tạo cơ hội để giáo dục kĩ năng sống hiệu quả. Kĩ năng sống chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình huống thực tế. Học sinh chỉ có kĩ năng khi em tự làm việc đó, chứ không chỉ nói về việc đó. Kinh nghiệm có được khi học sinh được hành động trong các tình huống đa dạng giúp các em dễ dàng sử dụng và điều chỉnh các kĩ năng phù hợp với điều kiện thực tế. Giáo viên cần thiết kế và tổ chức thực hiện các hoạt động trong và ngoài giờ học sao cho học sinh có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm sống của chính mình và người khác. Mỗi bài học thực hành kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 gồm 5 phần: + Mục tiêu + Câu chuyện + Trải nghiệm + Bài học + Đánh giá, nhận xét. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần quan tâm đến phần Trải nghiệm và phần Bài học, đặc biệt là phần Trải nghiệm: những yêu cầu về xử lí tình huống, thực hiện bài tập, trò chơi liên quan đến bài học để giúp học sinh vận dụng tri thức vào thực tế. Chẳn hạn, ở chủ đề “ Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao”, học sinh được thực hành “ Lập kế hoạch cho lớp làm vệ sinh sân trường” (yêu cầu 2- phần trải nghiệm). Có trải nghiệm qua thực tế việc làm vệ sinh sân trường, học sinh mới biết cần chuẩn bị những gì khi thực hiện công việc đó và lập được kế hoạch cho lớp. Sau đó, ở hoạt động tiếp nối, học sinh tiếp tục được thực hành lập kế hoạch và thực hiện nhiệm vụ trực nhật lớp học; lập kế hoạch và thực hiện dọn dẹp nhà cửa (ở nhà). Qua thực hành trải nghiệm, học sinh sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo của bản thân, học sinh được tham gia vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động từ lựa chọn ý tưởng, thiết kế hoạt động, tham gia chuẩn bị, thực hành trải nghiệm, tự đánh giá, khẳng định.
  11. 11 Hay ở chủ đề “ Cảm xúc của em” tổ chức cho các em tự xây dựng kịch bản và đóng vai thể hiện cảm xúc phù hợp. Từ đó giúp các em tự tin và có cách thể hiện cảm xúc phù hợp trong cuộc sống. Hoặc khi dạy chủ đề 2: “Khi em đi tham quan” hướng dẫn các em các bước gấp quần áo; Cách sơ cứu khi bị thương Từ những điều mà các em đã được trải nghiệm sẽ giúp các em linh hoạt hơn khi gặp phải những khó khăn trên. Ngoài việc dạy các bài thực hành kĩ năng sống, giáo viên cần loòng ghép việc dạy kĩ năng sống thông qua các môn học. Chẳng hạn: Ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp như: Viết thư; Giới thiệu về địa phương; Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, được lồng ghép cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài văn giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng như mẫu đơn, thư, tóm tắt tin tức, hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những kĩ năng sống. Thông qua các hoạt động học tập, trải nghiệm, hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai, học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cần thiết. Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: kể chuyện; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lí tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh, Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm, theo dự án, đóng vai, trò chơi, Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là những bài học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội.
  12. 12 Bản thân luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự tin, tự lập, tự khẳng định qua việc học nhóm. Ví dụ: Khi dạy bài: “Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị” môn Luyện từ và câu có thể cho học sinh chuẩn bị những hộp thư: Yêu cầu, đề nghị và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào nêu được nhiều yêu cầu, đề nghị lịch sự nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy tôi còn tổ chức cho các em trao đổi: “Theo em, như thế nào là lịch sự khi yêu cầu, đề nghị?” “Em đã lịch sự khi yêu cầu đề nghị chưa?” qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình. Ví dụ: Trong môn Khoa học. Ở bài: "Tại sao cần ăn phối hợp nhiều loại thức ăn?” có thể tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, chơi trò chơi “đi chợ” và lên thực đơn cho các bữa ăn trong một ngày: sáng, trưa, tối dưới sự trợ giúp của giáo viên. Sau khi học sinh nhận xét thực đơn của nhau, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức về một bữa ăn đủ chất, đảm bảo sức khỏe. Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho các em, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó. Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức hơn, thái độ đúng mực với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi giao tiếp đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Ở môn Khoa học: Chương “Con người và sức khỏe” giúp các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết phòng tránh một số bệnh lây qua đường tiêu hóa, biết những việc nên làm và không nên làm để phòng tránh tai nạn đuối nước, có ý thức làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự
  13. 13 giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt. Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng tránh tai nạn giao thông và các thương tích khác, cần thông qua các tiết: An toàn giao thông, Khoa học, thi Giao thông thông minh trên Internet, hướng dẫn các em phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác bằng cách đưa ra những tình huống cho các em xử lí. Chẳng hạn: “Trẻ em dưới 7 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường và khi qua đường? Đi bộ qua đường em phải đi ở đâu?”; “Khi đi bộ em đi ở đâu? Nếu đường không có vỉa hè thì thế nào?”; “Em có nên chơi đùa trên đưòng phố không? Có leo trèo qua dải phân cách và chơi gần dải phân cách không? Vì sao?”; “Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?”; “Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn xảy ra?”; Ở bài: “Các nguồn nhiệt” môn Khoa học: các em được đóng vai xử lí tình huống khi có tai nạn ở nhà như: Ủi quần áo bị cháy hay trông em giúp mẹ nhưng em đến gần bếp lửa Các nhóm sẽ thảo luận sau đó lên thể hiện. Các em còn lại quan sát và có nhận xét đối với những tình huống mà các bạn mình vừa xử lí để rút ra kĩ năng cấp cứu khi có những trường hợp xấu xảy ra. 3. Biện pháp 3. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp Các hoạt động ngoài giờ lên lớp hiện nay chúng ta đang tiến hành chủ yếu được tổ chức dựa triên các chủ đề đã được quy định trong chương trình: + Truyền thống nhà trường (tháng 9) + Người học sinh ngoan (tháng 10) + Nhớ ơn thầy cô ( tháng 11) + Uống nước nhớ nguồn; Yêu đất nước Việt Nam, yêu chú bộ đội (tháng 12)
  14. 14 + Yêu đất nước Việt Nam; Giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc (tháng 1) + Yêu đất nước Việt Nam; Mừng Đảng quang vinh (tháng 2) + Mẹ và cô; Tiến bước lên Đoàn (tháng 3) + Hòa bình và Hữu nghị (tháng 4) + Bác Hồ kính yêu (tháng 5). Có thể tổ chức các hoạt động này phong phú hơn cả về nội dung, phương pháp và hình thức; đặc biệt, mỗi hoạt động phải phù hợp với mục tiêu phát triển những phẩm chất, năng lực nhất định của học sinh; nghĩa là học sinh được học từ trải nghiệm. Giáo viên có thể tổ chức các hoạt động theo lớp hoặc kết hợp với giáo viên khác trong khối và Đoàn thanh niên. Tổng phụ trách Đội chủ động dồn tiết, tổ chức thành một buổi sinh hoạt theo chủ đề. Ví dụ: Tháng 12, giáo viên các khối kết hợp với Đoàn thanh niên , tổng phụ trách Đội chủ động dồn 3 tiết hoạt động ngoài giờ, tổ chức thành một buổi sinh hoạt theo chủ đề “ Uống nước nhớ nguồn; Yêu đất nước Việt Nam, yêu chú bộ đội” với các hoạt động sau: + Giao lưu: Mời một bác cựu chiến binh đến kể chuyện về kỉ niệm ngày 22/12, những tấm gương chiến đấu dũng cảm hoặt truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam Cũng có thể tổ chức cho học sinh xem phim, tư liệu về lịch sử, truyền thống địa phương + Hội vui học tập: Học sinh thể hiện sự hiểu biết về Quân đội nhân dân Việt Nam, lịch sử đất nước, lịch sử địa phương, biển đảo cũng như một số tấm gương liệt sĩ, thương binh ở địa phương qua các câu hỏi phù hợp với nhận thức của các em dưới hình thức Rung chuông vàng hoặt bốc thăm câu hỏi. + Triển lãm báo ảnh về các chú bộ đội và tình quân dân. + Trò chơi dân gian: Thi kéo co, nhảy dây Xen kẽ các hoạt động là các tiết mục văn nghệ ca ngợi đất nước, Đảng, Bác Hồ, quê hương, chú bộ đội
  15. 15 Ngoài các buổi sinh hoạt theo chủ đề, thông qua các bài học về an toàn giao thông, học sinh được thực hành giao thông, học sinh được thực hành nhận biết một số biển báo giao thông đường bộ theo các nhóm biển báo cấm, biển báo nguy hiểm, biển chỉ dẫn và biển hiệu lệnh trên mô hình và trên đường tới trường. Các em sẽ vận dụng những điều đã học vào cuộc sống hàng ngày: Đi xe đạp như thế nào là đúng luật giao thông, đảm bảo an toàn giao thông, đảm bảo an toàn cho bản thân và người khác; chọn đường đi an toàn khi tới trường. 4. Biện pháp 4. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động của các Câu lạc bộ. Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu dưới sự định hướng của giáo viên nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa học sinh với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động của Câu lạc bộ tạo cơ hội để học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của học sinh như: Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến, kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp ảnh, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề Câu lạc bộ là nơi học sinh được thực hành các quyền trẻ em của mình như quyền được học tập, quyền được vui chơi giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; quyền được tự do biểu đạt; tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin Thông qua hoạt động của Câu lạc bộ, giáo viên hiểu và quan tâm hơn đến nhu cầu, nguyện vọng mục đích chính đáng của các em. Mỗi lớp (hoặc khối) đều có thể tổ chức nhiều câu lạc bộ khác nhau cho các nhóm học sinh tham gia và cần xây dựng kế hoạch cụ thể cho mỗi câu lạc bộ để việc tổ chức thực hiện đạt được hiệu quả giáo dục cao như: Câu lạc bộ Em yêu Tiếng Việt; Câu lạc bộ Giải Toán tuổi thơ; Câu lạc bộ Thể dục thể thao,
  16. 16 5. Biện pháp 5. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt đông trải nghiệm tham quan, dã ngoại Tham quan, dã ngoại là một hình thức trải nghiệm, tổ chức học tập thực tế rất hấp dẫn đối với học sinh. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để học sinh được đi thăm, tìm hiểu và học hỏi kiến thức, tiếp xúc với các di tích lịch sử, văn hóa, công trình, nhà máy ở gần hoặc ở xa nơi các em đang sống, học tập, giúp các em có được những kiến thức kinh nghiệm thực tế, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống của chính các em. Nội dung tham quan, dã ngoại có tính giáo dục tổng hợp đối với học sinh như: Giáo dục lòng yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, giáo dục truyền thống lịch sử, truyền thống của Đảng, của Đoàn, của Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Các lĩnh vực tham quan, dã ngoại có thể được tổ chức là: Tham quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa; Tham quan các công trình công cộng, nhà máy, xí nghiệp; Tham quan các cơ sở sản xuất, làng nghề; Tham quan các Viện bảo tàng; Dã ngoại theo các chủ đề học tập; Dã ngoại theo các hoạt động nhân đạo, Tham quan, dã ngoại là hoạt động thu hút sự chú ý của đông đảo học sinh, nhiều em muốn tham gia bởi tính hấp dẫn của nó. Tham quan, dã ngoại là điều kiện và môi trường tốt cho các em tự khảng định mình, thể hiện tính tự quản, tính sáng tạo và biết đánh giá sự cố gắng, sử trưởng thành của bản thân cũng như tạo cơ hội để các em thực hiện phương châm “ học đi đôi với hành” “lí luận đi đôi với thực tiễn” Tuy nhiên, cơ sở vật chất cũng như kinh phí của cha mẹ học sinh, của nhà trường hạn hẹp, không có điều kiện tổ chức cho các em tham quan, dã ngoại ở xa nên các cơ sở như khu di tích lịch sử văn hóa địa phương, cơ quan, công trường, nhà vườn, khu chăn nuôi, đồng ruộng gần đó; hoặc ở mỗi gia đình đều có thể là địa điểm lý tưởng để học sinh được thực hành, trải nghiệm sáng tạo.
  17. 17 Với điều kiện thực tế của lớp, giáo viên có thể tổ chức cho các em tham quan, dâng hương Di tích lịch sử văn hóa ở địa phương vào ngày hội và trải nghiệm các hoạt động trong ngày hội của các làng trong xã. Tham quan xưởng cơ khí, nhôm kính, lò rèn ở địa phương để tìn hiểu về ứng dụng cũng như cách sản xuất đồ dùng từ hợp kim của sắt (thép); chấn song sắt, hàng rào sắt, cửa sắt, dao, cuốc, xẻng ( Bài 23. Sắt, gang, thép và bài 25. Nhôm - Môn khoa học) Tham quan vườn ươm cây giống ở địa phương để các em tìm hiểu các cách tạo ra cây con: gieo hạt, giâm cành, chiết ghép .(Bài Cây con mọc lên từ hạt và Bài Cây con có thể mọc lên từ một số bộ phận của cây mẹ - Môn khoa học) Thăm hộ gia đình chăn nuôi nhiều gà giúp các em trải nghiệm về cách cho gà ăn, uống, chăm sóc và vệ sinh phòng bệnh cho gà (Bài 13. Nuôi dưỡng gà; Bài 14. Chăm sóc gà; Bài 15. Vệ sinh phòng bệnh cho gà - Môn kĩ thuật) Tham quan trụ sở Ủy ban nhân dân xã để tìm hiểu về vai trò cũng như một số hoạt động của Ủy ban nhân dân xã (Bài 10. Ủy bân nhân dân xã - Môn Đạo đức) Viếng, chăm sóc các ngôi mộ Liệt sĩ ở Nghĩa trang liệt sĩ của xã để thể hiện đạo lí uống nước nhớ nguồn, Bên cạnh đó, giáo viên cũng có thể phối hợp với nhà trường tổ chức các chuyến tham quan học tập các di tích lịch sử, cảnh đẹp của đất nước như Đền Hùng, Lăng Bác, Văn miếu Quốc Tử Giám, Côn Sơn- Kiếp Bạc, Đền thờ thầy giáo Chu Văn An, Khi đưa các em đi tham quan cần chú ý: Liên hệ trước với nơi sẽ đưa các em đến, tìm hiểu quy định cũng như nội quy ở đó để nhắc nhở các em thực hiện theo. Giáo viên cần sắp xếp thời gian phù hợp với mỗi hoạt động và đảm bảo an toàn cho các em trên đường đi về. Học sinh cần ghi chép, chủ động, tích cực tìm hiểu hoạt động ở nơi đến để phát triển năng lực của bản thân, biết vận dụng thực